Hoang dã và ác độc,
Thường cắn những dây cương,
Như vậy ác, ác đồng,
Bất thiện, bất thiện đồng.
167. Udetayaṃ cakkhumā ekarājā harissavaṇṇo paṭhavippabhāso, taṃ taṃ namassāmi harissavaṇṇaṃ paṭhavippabhāsaṃ tayajja guttā viharemu divasaṃ.
167. Vị này mọc lên, là bậc có mắt, vị vua độc nhất, có sắc vàng chói, có sự chiếu sáng trái đất. Tôi lễ bái ngài ấy, bậc có sắc vàng chói, có sự chiếu sáng trái đất. Hôm nay, được bảo vệ bởi ngài, chúng tôi có thể sống (an toàn) trọn ngày.
Hãy mọc lên, mặt trời,
Vua độc nhất có mắt,
Với màu sắc vàng chói,
Sáng rực cả đất liền.
Và ta đảnh lễ ngài,
Bậc chói vàng quả đất,
Nay hãy bảo hộ ta
Sống an toàn trọn ngày.
168. Ye brāhmaṇā vedagū sabbadhamme te me namo te ca maṃ pālayantu, namatthu buddhānaṃ namatthu bodhiyā namo vimuttānaṃ namo vimuttiyā. Imaṃ so parittaṃ katvā moro carati esanā.
168. Những vị nào là các bậc Bà-la-môn, đã thông hiểu tất cả các pháp, tôi kính lễ các vị ấy, và mong các vị ấy hộ trì đến tôi. Xin kính lễ đến các bậc đã giác ngộ, xin kính lễ đến sự giác ngộ. xin kính lễ đến các bậc đã giải thoát, xin kính lễ đến sự giải thoát. Sau khi đã thực hiện sự bảo vệ này, con công ấy đi kiếm ăn.
Các vị Thánh, chân nhân,
Bậc tuệ tri mọi pháp,
Con đảnh lễ các Ngài
Hãy hộ trì cho con.
Ðảnh lễ chư Phật-đà,
Ðảnh lễ Bồ-đề vị,
Ðảnh lễ bậc giải thoát,
Ðảnh lễ giải thoát vị.
169. Apetayaṃ cakkhumā ekarājā harissavaṇṇo paṭhavippabhāso,taṃ taṃ namassāmi harissavaṇṇaṃ paṭhavip3pabhāsaṃ tayajja guttā viharemu rattiṃ.
169. Vị này biến mất, là bậc có mắt, vị vua độc nhất, có sắc vàng chói, có sự chiếu sáng trái đất. Tôi lễ bái ngài ấy, bậc có sắc vàng chói, có sự chiếu sáng trái đất. Hôm nay, được bảo vệ bởi ngài, chúng tôi có thể sống (an toàn) trọn đêm.
Hãy lặn xuống mặt trời,
Vua độc nhất có mắt,
Với màu sắc vàng chói,
Sáng rực cả đất liền;
Và ta đảnh lễ ngài,
Bậc chói vàng quả đất,
Nay hãy bảo vệ ta
Sống an toàn trọn đêm.
170. Ye brāhmaṇā vedagū sabbadhamme te me namo te ca maṃ pālayantu, namatthu buddhānaṃ namatthu bodhiyā namo vimuttānaṃ namo vimuttiyā. Imaṃ so parittaṃ katvā moro vāsamakappayī ”ti.
9. Morajātakaṃ.
170. Những vị nào là các bậc Bà-la-môn, đã thông hiểu tất cả các pháp, tôi kính lễ các vị ấy, và mong các vị ấy hộ trì đến tôi. Xin kính lễ đến các bậc đã giác ngộ, xin kính lễ đến sự giác ngộ. xin kính lễ đến các bậc đã giải thoát, xin kính lễ đến sự giải thoát. Sau khi đã thực hiện sự bảo vệ này, con công ấy đã sắp xếp chỗ cư ngụ.
9. Bổn sanh Con Công.
Chư vị thánh, chân nhân,
Bậc tuệ trí mọi pháp,
Con đảnh lễ các ngài,
Hãy hộ trì cho con.
Ðảnh lễ chư Phật-đà,
Ðảnh lễ Bồ-đề vị,
Ðảnh lễ bậc giải thoát,
Ðảnh lễ giải thoát vị.
171. Evameva nūna rājānaṃ vedehaṃ mithilaggahaṃ, assā vahanti ājaññā yathā haṃsā vinīlakaṃ.
171. Thật vậy, các con ngựa thuần chủng đưa rước đức vua trị vì ở thành Mithilā, xứ Videha, giống y như cách các con thiên nga đưa Vinīlaka đi vậy.
Giống vua Vi-de-ha
Ðược các ngựa thuần chủng
Kéo ngang các ngôi nhà
Tại thành Mi-thi-là,
Cũng vậy, Vi-nì-là
Ðược hai ngỗng trời chở
Giữa hư không bao la!
172. Vinīla duggaṃ bhajasi abhūmiṃ tāta sevasi, gāmantikāni sevassu etaṃ mātālayaṃ tavā ”ti.
10. Vinīlakajātakaṃ.
172. Này Vinīla, con đi đến nơi hiểm trở. Này con thân, con lai vãng chốn không thích hợp. Con hãy lai vãng các chỗ ven làng, chỗ ngụ ấy là của mẹ con.
Phiên bản thư viện demo v4.5 [Tipiṭaka Tiếng Việt] Theravada