Duyên khởi ở thành Sāvatthī: Vào lúc bấy giờ, tỳ khưu ni Thullanandā sau khi trao đổi y với vị tỳ khưu ni nọ rồi đã sử dụng. Khi ấy, vị tỳ khưu ni ấy đã xếp y ấy lại rồi để riêng. Tỳ khưu ni Thullanandā đã nói với vị tỳ khưu ni ấy điều này: - “Này ni sư, cái y đã được tôi trao đổi với cô, cái y ấy đâu rồi?” Khi ấy, vị tỳ khưu ni ấy đã đem y ấy lại và đưa cho tỳ khưu ni Thullanandā thấy. Tỳ khưu ni Thullanandā đã nói với vị tỳ khưu ni ấy điều này: - “Này ni sư, hãy nhận lại y của cô đi. Y này là của tôi. Y nào của cô là của chính cô, y nào của tôi là của chính tôi. Hãy đưa đây, y này là của tôi. Hãy mang đi y của mình,” rồi đã giật lại. Sau đó, vị tỳ khưu ni ấy đã kể lại sự việc ấy cho các tỳ khưu ni.
Các tỳ khưu ni nào ít ham muốn, ―(như trên)― các vị ni ấy phàn nàn, phê phán, chê bai rằng: - “Vì sao ni sư Thullanandā sau khi trao đổi y với tỳ khưu ni rồi giật lại?” ―(như trên)― “Này các tỳ khưu, nghe nói tỳ khưu ni Thullanandā sau khi trao đổi y với vị tỳ khưu ni rồi giật lại, có đúng không vậy?” - “Bạch Thế Tôn, đúng vậy.” Đức Phật Thế Tôn đã khiển trách rằng: ―(như trên)― Này các tỳ khưu, vì sao tỳ khưu ni Thullanandā sau khi trao đổi y với tỳ khưu ni rồi giật lại vậy? Này các tỳ khưu, sự việc này không đem lại niềm tin cho những kẻ chưa có đức tin, ―(như trên)― Và này các tỳ khưu, các tỳ khưu ni hãy phổ biến điều học này như vầy:
“Vị tỳ khưu ni nào khi đã trao đổi y với tỳ khưu ni sau đó lại nói như vầy: ‘Này ni sư, hãy nhận lấy y của cô. Y này là của tôi. Y nào của cô là của chính cô, y nào của tôi là của chính tôi. Hãy đưa đây, y này là của tôi. Hãy mang đi y của mình’ rồi giật lại hoặc bảo giật lại thì (y ấy) nên được xả bỏ và (vị ni ấy) phạm tội pācittiya.”
Vị ni nào: là bất cứ vị ni nào ―(như trên)―
Tỳ khưu ni: ―(như trên)― vị ni này là ‘vị tỳ khưu ni’ được đề cập trong ý nghĩa này.
Với vị tỳ khưu ni: với vị tỳ khưu ni khác.
Y nghĩa là bất cứ loại y nào thuộc về sáu loại y (có kích thước) tối thiểu cần phải chú nguyện để dùng chung.
Khi đã trao đổi: sau khi trao đổi (y) lớn bằng (y) nhỏ hoặc là (y) nhỏ bằng (y) lớn.
Giật lại: vị ni tự mình giật lại thì phạm vào nissaggiya pācittiya.
Bảo giật lại: vị ni ra lệnh người khác thì phạm tội dukkaṭa. Được ra lệnh một lần, (vị nghe lệnh) giật lại nhiều lần thì phạm (chỉ một) nissaggiya. Nên được xả bỏ đến hội chúng, hoặc đến nhóm, hoặc đến một vị tỳ khưu ni. Và này các tỳ khưu, nên được xả bỏ như vầy: ―(như trên)― “Bạch chư đại đức ni, y này của tôi sau khi trao đổi với tỳ khưu ni rồi đã giật lại, giờ cần được xả bỏ. Tôi xả bỏ y này đến hội chúng. ―(như trên)― hội chúng nên cho lại ―(như trên)― các đại đức ni nên cho lại ―(như trên)― “Tôi cho lại ni sư.”
Người nữ đã tu lên bậc trên, nhận biết là đã tu lên bậc trên, vị ni sau khi trao đổi y rồi giật lại hoặc bảo giật lại thì phạm tội nissaggiya pācittiya. Người nữ đã tu lên bậc trên, có sự hoài nghi, vị ni sau khi trao đổi y rồi giật lại hoặc bảo giật lại thì phạm tội nissaggiya pācittiya. Người nữ đã tu lên bậc trên, (lầm) tưởng là chưa tu lên bậc trên, vị ni sau khi trao đổi y rồi giật lại hoặc bảo giật lại thì phạm tội nissaggiya pācittiya.
Vị ni sau khi trao đổi vật dụng khác rồi giật lại hoặc bảo giật lại thì phạm tội dukkaṭa. Vị ni sau khi trao đổi y hoặc vật dụng khác với người nữ chưa tu lên bậc trên rồi giật lại hoặc bảo giật lại thì phạm tội dukkaṭa. Người nữ chưa tu lên bậc trên, (lầm) tưởng là đã tu lên bậc trên, phạm tội dukkaṭa. Người nữ chưa tu lên bậc trên, có sự hoài nghi, phạm tội dukkaṭa. Người nữ chưa tu lên bậc trên, nhận biết là chưa tu lên bậc trên, phạm tội dukkaṭa.
Vị ni kia cho, hoặc vị ni lấy đi trong khi có sự thân thiết với vị ni kia, vị ni bị điên, ―(như trên)― vị ni vi phạm đầu tiên thì vô tội.”
Điều học thứ ba.
--ooOoo--
Phiên bản thư viện demo v4.5 [Tipiṭaka Tiếng Việt] Theravada