Lúc bấy giờ, đức Phật Thế Tôn ngự tại thành Sāvatthī, Jetavana, tu viện của ông Anāthapiṇḍika. Vào lúc bấy giờ, các tỳ khưu ni nhóm Lục Sư thực hiện việc tích trữ nhiều bình bát. Dân chúng trong lúc đi dạo quanh các trú xá nhìn thấy rồi phàn nàn, phê phán, chê bai rằng: - “Tại sao các tỳ khưu ni lại thực hiện việc tích trữ nhiều bình bát? Không lẽ các tỳ khưu ni sẽ làm việc buôn bán bình bát hay sẽ lập nên gian hàng gốm sứ?”
Các tỳ khưu ni đã nghe được những người ấy phàn nàn, phê phán, chê bai. Các tỳ khưu ni nào ít ham muốn, ―(như trên)― các vị ni ấy phàn nàn, phê phán, chê bai rằng: - “Vì sao các tỳ khưu ni nhóm Lục Sư lại thực hiện việc tích trữ bình bát?” ―(như trên)― “Này các tỳ khưu, nghe nói các tỳ khưu ni nhóm Lục Sư thực hiện việc tích trữ bình bát, có đúng không vậy?” - “Bạch Thế Tôn, đúng vậy.” Đức Phật Thế Tôn đã khiển trách rằng: ―(như trên)― Này các tỳ khưu, vì sao các tỳ khưu ni nhóm Lục Sư lại thực hiện việc tích trữ bình bát vậy? Này các tỳ khưu, sự việc này không đem lại niềm tin cho những kẻ chưa có đức tin, ―(như trên)― Và này các tỳ khưu, các tỳ khưu ni hãy phổ biến điều học này như vầy:
“Vị tỳ khưu ni nào thực hiện việc tích trữ bình bát thì (bình bát ấy) nên được xả bỏ và (vị ni ấy) phạm tội pācittiya.”
Vị ni nào: là bất cứ vị ni nào ―(như trên)―
Tỳ khưu ni: ―(như trên)― vị ni này là ‘vị tỳ khưu ni’ được đề cập trong ý nghĩa này.
Bình bát nghĩa là có hai loại bình bát: bình bát sắt và bình bát đất. Bình bát có ba dạng: bình bát cỡ lớn, bình bát cỡ vừa, bình bát cỡ nhỏ. Bình bát cỡ lớn nghĩa là chứa được một nửa āḷhaka cơm, một phần tư vật thực là thức ăn tương xứng với phần (cơm) ấy. Bình bát cỡ vừa nghĩa là chứa được một nāḷika cơm, một phần tư vật thực là thức ăn tương xứng với phần (cơm) ấy. Bình bát cỡ nhỏ nghĩa là chứa được một pattha cơm, một phần tư vật thực là thức ăn tương xứng với phần (cơm) ấy. Lớn hơn các cỡ ấy không phải là bình bát, nhỏ hơn không phải là bình bát.
Thực hiện việc tích trữ: (bình bát) chưa được chú nguyện để dùng riêng, chưa được chú nguyện để dùng chung.
Nên được xả bỏ: Đến lúc rạng đông thì phạm vào nissaggiya, (bình bát ấy) cần được xả bỏ đến hội chúng, hoặc đến nhóm, hoặc đến một vị tỳ khưu ni. Và này các tỳ khưu, nên được xả bỏ như vầy: Vị tỳ khưu ni ấy nên đi đến nơi hội chúng, đắp thượng y một bên vai, đảnh lễ ở chân các tỳ khưu ni trưởng thượng, ngồi chồm hổm, chắp tay lên, và nên nói như vầy: - “Bạch chư đại đức ni, bình bát này của tôi đã qua đêm giờ cần được xả bỏ. Tôi xả bỏ vật này đến hội chúng.” Sau khi xả bỏ, nên sám hối tội. Tội nên được ghi nhận bởi vị tỳ khưu ni có kinh nghiệm, đủ năng lực. Bình bát đã xả bỏ nên được cho lại:
“Bạch chư đại đức ni, xin hội chúng hãy lắng nghe tôi. Bình bát này thuộc về tỳ khưu ni tên (như vầy) là vật phạm vào nissaggiya đã được xả bỏ đến hội chúng. Nếu là thời điểm thích hợp cho hội chúng, hội chúng nên cho lại bình bát này đến tỳ khưu ni tên (như vầy).”
Vị tỳ khưu ni ấy nên đi đến nhiều tỳ khưu ni, đắp thượng y một bên vai, đảnh lễ ở chân các tỳ khưu ni trưởng thượng, ngồi chồm hổm, chắp tay lên, và nên nói như vầy: - “Thưa các đại đức ni, bình bát này của tôi đã qua đêm giờ cần được xả bỏ. Tôi xả bỏ vật này đến các đại đức ni.” Sau khi xả bỏ, nên sám hối tội. Tội nên được ghi nhận bởi vị tỳ khưu ni có kinh nghiệm, đủ năng lực. Bình bát đã xả bỏ nên được cho lại:
“Xin các đại đức ni hãy lắng nghe tôi. Bình bát này thuộc về tỳ khưu ni tên (như vầy) là vật phạm vào nissaggiya đã được xả bỏ đến các đại đức ni. Nếu là thời điểm thích hợp cho các đại đức ni, các đại đức ni nên cho lại bình bát này đến tỳ khưu ni tên (như vầy).”
Vị tỳ khưu ni ấy nên đi đến gặp một vị tỳ khưu ni, đắp thượng y một bên vai, ngồi chồm hổm, chắp tay lên, và nên nói như vầy: - “Thưa ni sư, bình bát này của tôi đã qua đêm giờ cần được xả bỏ. Tôi xả bỏ vật này đến ni sư.” Sau khi xả bỏ, nên sám hối tội. Tội nên được ghi nhận bởi vị tỳ khưu ni ấy, bình bát đã xả bỏ nên được cho lại: “Tôi cho lại ni sư bình bát này.”
Khi đã qua đêm, nhận biết là đã qua đêm, phạm tội nissaggiya pācittiya. Khi đã qua đêm, có sự hoài nghi, phạm tội nissaggiya pācittiya. Khi đã qua đêm, (lầm) tưởng là chưa qua đêm, phạm tội nissaggiya pācittiya.
Khi chưa chú nguyện để dùng riêng, (lầm) tưởng là đã chú nguyện để dùng riêng, phạm tội nissaggiya pācittiya. Khi chưa chú nguyện để dùng chung, (lầm) tưởng là đã chú nguyện để dùng chung, phạm tội nissaggiya pācittiya. Khi chưa được phân phát, (lầm) tưởng là đã được phân phát, phạm tội nissaggiya pācittiya. Khi không bị mất trộm, (lầm) tưởng là đã bị mất trộm, phạm tội nissaggiya pācittiya. Khi không bị hư hỏng, (lầm) tưởng là đã bị hư hỏng, phạm tội nissaggiya pācittiya. Khi không bị vỡ, (lầm) tưởng là đã bị vỡ, phạm tội nissaggiya pācittiya. Khi không bị cướp, (lầm) tưởng là đã bị cướp, phạm tội nissaggiya pācittiya.
Bình bát là vật vi phạm nissaggiya, không xả bỏ rồi sử dụng, phạm tội dukkaṭa. Khi chưa qua đêm, (lầm) tưởng là đã qua đêm, phạm tội dukkaṭa. Khi chưa qua đêm, có sự hoài nghi, phạm tội dukkaṭa. Khi chưa qua đêm, nhận biết là chưa qua đêm thì vô tội.
Trong lúc rạng đông vị ni chú nguyện để dùng riêng, vị ni chú nguyện để dùng chung, vị ni phân phát, (bình bát) bị mất trộm, bị hư hỏng, bị vỡ, (các người khác) cướp rồi lấy đi, (các vị khác) lấy đi do sự thân thiết, vị ni bị điên, ―(như trên)― vị ni vi phạm đầu tiên thì vô tội.”
Vào lúc bấy giờ, các tỳ khưu ni nhóm Lục Sư không cho lại bình bát đã được xả bỏ. Các vị đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn. - “Này các tỳ khưu, không nên không cho lại bình bát đã được xả bỏ; vị ni nào không cho lại thì phạm tội dukkaṭa.”
Điều học thứ nhất.
--ooOoo--
Phiên bản thư viện demo v4.5 [Tipiṭaka Tiếng Việt] Theravada