Duyên khởi ở thành Sāvatthī: Vào lúc bấy giờ, các tỳ khưu ni tiếp đ người nữ đã kết hôn khi tròn đ mười hai tuổi chưa thực hành việc học tập về sáu pháp trong hai năm. Các vị ni ấy ngu dốt, không có kinh nghiệm, không biết việc đúng phép hay không đúng phép.

Các tỳ khưu ni nào ít ham mun, ―(như trên)― các vị ni ấy phàn nàn, phê phán, chê bai rằng: - “Vì sao các tỳ khưu ni lại tiếp đ người nữ đã kết hôn khi tròn đ mười hai tuổi chưa thực hành việc học tập về sáu pháp trong hai năm?” ―(như trên)― “Này các tỳ khưu, nghe nói các t khưu ni tiếp đ người nữ đã kết hôn khi tròn đ mười hai tuổi chưa thực hành việc học tập về sáu pháp trong hai năm, có đúng không vậy?” - “Bạch Thế Tôn, đúng vậy.” Đức Phật Thế Tôn đã khiển trách rằng: ―(như trên)― Này các tỳ khưu, vì sao các tỳ khưu ni lại tiếp đ người nữ đã kết hôn khi tròn đ mười hai tuổi chưa thực hành việc học tập về sáu pháp trong hai năm vậy? Này các tỳ khưu, sự việc này không đem lại niềm tin cho những kẻ chưa có đc tin, ―(như trên)― Sau khi khin trách, Ngài đã nói Pháp thoại rồi bảo các tỳ khưu rằng: - “Này các tỳ khưu, ta cho phép ban cho sự chấp thuận việc học tập về sáu pháp trong hai năm đến người nữ đã kết hôn khi tròn đ mười hai tuổi. Và này các tỳ khưu, nên ban cho như vy: Người nữ đã kết hôn khi tròn đ mười hai tuổi ấy nên đi đến nơi hi chúng, đp thượng y một bên vai, đảnh lễ ở chân các tỳ khưu ni, ngồi chồm hổm, chắp tay lên, và nên nói như vầy: “Bạch chư đi đức ni, tôi tên (như vầy) thuộc về đi đc ni tên (như vy) là người nữ đã kết hôn khi tròn đ mười hai tuổi thỉnh cầu hội chúng sự chấp thuận việc học tập về sáu pháp trong hai năm.” Nên được thỉnh cầu lần thứ nhì. Nên được thỉnh cầu lần thứ ba. Hội chúng cần được thông báo bởi vị tỳ khưu ni có kinh nghim, đ năng lực:

Bạch chư đi đức ni, xin hội chúng hãy lắng nghe tôi. Cô ni này tên (như vầy) thuộc về đi đc ni tên (như vy) là người nữ đã kết hôn khi tròn đ mười hai tuổi thỉnh cầu hội chúng sự chấp thuận việc học tập về sáu pháp trong hai năm. Nếu là thời điểm thích hợp cho hội chúng, hội chúng nên ban cho sự chấp thuận việc học tập về sáu pháp trong hai năm đến người nữ đã kết hôn khi tròn đ mười hai tuổi tên (như vy). Đây là li đề nghị.

Bạch chư đi đức ni, xin hội chúng hãy lắng nghe tôi. Cô ni này tên (như vầy) thuộc về đi đc ni tên (như vy) là người nữ đã kết hôn khi tròn đ mười hai tuổi thỉnh cầu hội chúng sự chấp thuận việc học tập về sáu pháp trong hai năm. Hội chúng ban cho sự chấp thuận việc học tập về sáu pháp trong hai năm đến người nữ đã kết hôn khi tròn đ mười hai tuổi tên (như vy). Đi đc ni nào đồng ý việc ban cho sự chấp thuận việc học tập về sáu pháp trong hai năm đến người nữ đã kết hôn khi tròn đ mười hai tuổi tên (như vầy) xin im lặng; vị ni nào không đồng ý có thể nói lên.

Sự chấp thuận việc học tập về sáu pháp trong hai năm đã được hội chúng ban cho đến người nữ đã kết hôn khi tròn đ mười hai tuổi tên (như vầy). Sự việc được hội chúng đồng ý nên mới im lặng. Tôi ghi nhận sự việc này là như vậy.”

Người nữ đã kết hôn khi tròn đ mười hai tuổi ấy nên được nói rằng: “Cô hãy nói như vầy: Tôi xin thọ trì việc tránh xa sự giết hại mạng sống không vi phạm trong hai năm. ―(như trên)― Tôi xin thọ trì việc tránh xa sự ăn sái thời không vi phạm trong hai năm.” Sau đó, đức Thế Tôn đã khiển trách các tỳ khưu ni ấy bằng nhiều phương thức về sự khó khăn trong việc cấp dưng ―(như trên)― Và này các tỳ khưu, các t khưu ni hãy phổ biến điều học này như vầy:

“Vị tỳ khưu ni nào tiếp đ người nữ đã kết hôn khi tròn đ mười hai tuổi chưa thực hành việc học tập về sáu pháp trong hai năm thì phạm tội pācittiya.”

Vị ni nào: là bất cứ vị ni nào ―(như trên)

Tỳ khưu ni: ―(như trên)― vị ni này là ‘vị tỳ khưu ni’ đưc đề cập trong ý nghĩa này.

Tròn đời hai tuổi nghĩa là đã đt đến mười hai tuổi.

Người nữ đã kết hôn nghĩa là đề cập đến người nữ đã đi đến ở chung với ngưi đàn ông.

Hai năm: (thời hạn) hai năm.

Chưa thực hành việc học tập nghĩa là việc học tập chưa được ban cho hoặc là việc học tập đã ban cho bị hư hoại.

Tiếp đ: cho tu lên bậc trên.

Vị ni (nghĩ rằng): “Ta sẽ tiếp độ” rồi tìm kiếm nhóm (tỳ khưu ni), hoặc vị ni tuyên ngôn, hoặc là bình bát, hoặc là y, hoặc là chỉ định ranh giới thì phạm tội dukkaṭa. Do lời đề nghị thì phạm tội dukkaṭa. Do hai lời thông báo của hành sự thì phạm các tội dukkaṭa. Khi chấm dứt tuyên ngôn hành sự, ni sư tế độ phạm tội pācittiya, nhóm (chứng minh) và vị ni tuyên ngôn phạm tội dukkaṭa.

Hành sự đúng Pháp, nhận biết là hành sự đúng Pháp, vị ni tiếp độ thì phạm tội pācittiya. Hành sự đúng Pháp, có sự hoài nghi, vị ni tiếp độ thì phạm tội pācittiya. Hành sự đúng Pháp, (lm) tưởng là hành sự sai Pháp, vị ni tiếp độ thì phạm tội pācittiya.

Hành sự sai Pháp, (lầm) tưởng là hành sự đúng Pháp, phạm tội dukkaṭa. Hành sự sai Pháp, có sự hoài nghi, phạm tội dukkaṭa. Hành sự sai Pháp, nhận biết là hành sự sai Pháp, phạm tộidukkaṭa.

Vị ni tiếp đ người nữ đã kết hôn khi tròn đ mười hai tuổi đã thực hành việc học tập về sáu pháp trong hai năm, vị ni bị điên, ―(như trên)― vị ni vi phạm đầu tiên thì vô tội.”

Điều học thứ sáu.

--ooOoo--



Phiên bản thư viện demo v4.5 [Tipiṭaka Tiếng Việt] Theravada