131. Asampadānen’ itarītarassa bālassa mittāni kalībhavanti, tasmā harāmi bhusaṃ aḍḍhamānaṃ mā me mitti jīyittha sassatāyan ”ti.

1. Asampadānajātakaṃ. 

131. Do việc không tiếp nhận vật của người này hay của người khác, các bạn bè của kẻ ngu bị chia cắt; vì thế, tôi mang đi một nửa thùng trấu (nghĩ rằng): ‘Chớ để cho tình bạn của ta bị tiêu hoại, mong sao nó sẽ được trường tồn.’

Bổn sanh Không Tiếp Nhận 

Nếu người này người kia
Không có cho chút gì.
Với kẻ ngu si, tình bạn
Ði đến chỗ tối đen
Do vậy ta vẫn nhận
Lượng được nửa phần trấu.
Ta không để tình bạn
Vì ta bị hủy diệt,
Ta muốn tình bạn này
Mãi mãi được trường cửu.

132. Kusalūpadese dhitiyā daḷhāya ca avatthitattā bhayabhīrutāya ca, na rakkhasīnaṃ vasamāgamimha
sa sotthibhāvo mahatā bhayena me ”ti.

2. Pañcagarukajātakaṃ. 

132. Với sự can đảm và vững chãi theo lời chỉ dạy của các thiện nhân, với trạng thái đã được ổn định, và không sợ hãi hay khiếp đảm, ta đã không rơi vào sự khống chế của các nữ quỷ, trạng thái an ổn đối với nỗi sợ hãi lớn lao ấy đã có cho ta.

Bổn sanh Năm Điều Nghiêm Trọng 

Nghe theo lời khuyên tốt,
Kiên trì, không lay động,
Tiếp tục con đường,
Không có gì sợ hãi.
Ta không muốn đi vào
Chỗ cám dỗ Dạ-xoa,
Nên ta được an toàn,
Khỏi sự sợ hãi lớn.

133. Khemaṃ yahiṃ tattha arī udīrito udakassa majjhe jalate ghatāsano, na ajja vāso mahiyā mahīruhe disā bhajavho saraṇajja no bhayan ”ti.

3. Ghatāsanajātakaṃ. 

133. Tại nơi có sự an toàn, nơi ấy kẻ thù đã lên tiếng; ngọn lửa tự bốc cháy từ chính giữa của nước hồ. Hôm nay chỗ ngụ ở cây mọc trên đất không còn nữa. Các bạn hãy bay đi các phương, chốn nương nhờ hôm nay là sự sợ hãi của chúng ta.

Bổn sanh Ngọn Lửa 

Nơi chốn được an ổn,
Tại đấy, rắn nổi lên,
Chính ở giữa lòng nước,
Lửa từ đấy cháy lên,
Nay không nên trú ở
Tại cây mọc trên đất,
Hãy bay tản các phương,
Hồ này rất đáng sợ.

134. Ye saññino tepi duggatā yepi asaññino tepi duggatā, etaṃ ubhayaṃ vivajjaya taṃ samāpattisukhaṃ anaṅgaṇan ”ti.4. Jhānasodhanajātakaṃ.

134. Những người (ở cõi) hữu tưởng, họ cũng đi khổ cảnh, ngay cả những người (ở cõi) vô tưởng, họ cũng đi khổ cảnh. Sau khi buông bỏ cả hai điều này, an lạc của sự chứng đạt ấy là không có ô nhiễm.

Bổn sanh Sự Trong Sạch Của Thiền 

Những ai còn có tưởng,
Chúng cũng đi ác thú;
Những ai không có tưởng,
Chúng cũng đi ác thú,
Hãy từ bỏ cả hai,
Ðạt được lạc thiền chứng,
Không còn các uế nhiễm.

135. Candābhaṃ suriyābhañca yo ’dha paññāya gādhati, avitakkena jhānena hoti ābhassarūpago ”ti.

5. Candābhajātakaṃ.  

135. Ở đây, người nào gắn chặt vào ánh sáng của mặt trăng và ánh sáng của mặt trời nhờ vào trí tuệ, với thiền không có tầm (nhị thiền), người ấy sanh về cõi Quang Âm Thiên.

Bổn sanh Ánh Sáng Của Mặt Trăng 

Nguyệt quang và nhật quang,
Ai tu với trí tuệ
Với thiền không tầm này,
Ðược sanh Quang âm thiên.

136. Yaṃ laddhaṃ tena tuṭṭhabbaṃ atilobho hi pāpako, haṃsarājaṃ gahetvāna suvaṇṇā parihāyathā ”ti.

6. Suvaṇṇahaṃsajātakaṃ. 

136. Vật nào đã được thọ nhận, nên hài lòng với vật đó; bởi vì tham quá lố là xấu xa. Sau khi bắt được thiên nga chúa, người (mẹ) đã mất hết vàng.

Bổn sanh Con Thiên Nga Vàng 

Ðược gì, hãy biết đủ,
Quá tham là ác pháp,
Do bắt chúa ngỗng trời,
Bao nhiêu vàng tiêu hết.

137. Yattheko labhate babbu dutiyo tattha jāyati, tatiyo ca catuttho ca idaṃ te babbukā bilan ”ti.

7. Babbukajātakaṃ. 

137. Ở nơi có một con mèo nhận lãnh (thức ăn), tại nơi ấy con mèo thứ hai xuất hiện, con thứ ba, rồi con thứ tư; bốn con mèo ấy (lao đến) hang chuột này (và bị tiêu vong).

Bổn sanh Con Mèo 

Tại chỗ cho một mèo,
Mèo thứ hai hiện ra,
Rồi mèo thứ ba, bốn,
Tất cả con mèo chết,
Vì chạm hang gương này.

138. Kinte jaṭāhi dummedha kinte ajinasāṭiyā, abbhantaraṃ te gahanaṃ bāhiraṃ parimajjasī ”ti.

8. Godhajātakaṃ. 

138. Này kẻ ngu muội, có ích gì với những búi tóc bện của ngươi? Có ích gì với y phục bằng da dê của ngươi? Ngươi đánh bóng bên ngoài, bên trong của ngươi là rừng rậm (ô nhiễm).

Bổn sanh Con Kỳ Đà. 

Kẻ ngu có ích gì,
Bện tóc với da dê,
Nội tâm đầy phiền não,
Ngoài mặt đánh bóng suông?

139. Akkhi bhinnā paṭo naṭṭho sakhī gehe ca bhaṇḍanaṃ, ubhato paduṭṭhakammanto udakamhi thalamhi cā ”ti.

9. Ubhatobhaṭṭhajātakaṃ. 

139. (Hai) con mắt bị tổn thương, cái áo choàng bị mất, và người vợ ở nhà gây cãi vã; việc làm bị hư hỏng ở cả hai nơi, ở trong nước và ở trên đất liền.

Bổn sanh Bị Suy Sụp Cả Hai Nơi. 

Mắt mù, áo bị mất,
Cãi vã, vợ bị đánh,
Hai việc đều hư hỏng,
Dưới nước và trên cạn.

Câu chuyện 139

140. Niccaṃ ubbiggahadayā sabbalokavihesakā, tasmā tesaṃ vasā natthi kākānasmāka ñātīnan ”ti.

10. Kākajātakaṃ. 

140. Những con quạ thân quyến của chúng tôi, có tâm bị kích động thường xuyên, là những kẻ gây phiền hà đến tất cả thế gian, vì thế không có lớp mỡ ở chúng.  

Bổn sanh Con Quạ 

Tâm thường bị chấn động,
Bị thế giới làm hại,
Do vậy không có mỡ,
Bà con quạ chúng tôi.

Asampadānavaggo cuddasamo.

***** 

Phẩm Không Tiếp Nhận là thứ mười bốn.

***** 

TASSUDDĀNA 

Itarītararakkhasikhemiyo ca parosatapañhena ābhassaro puna, atha haṃsavaruttamababbujaṭaṃ paṭanaṭṭhakakākavarena dasa.

--ooOoo--

TÓM LƯỢC PHẨM NÀY

Của người này hay của người khác, các nữ quỷ, và sự an toàn, với câu hỏi của hơn một trăm người, thêm vào cõi Quang Âm Thiên, rồi chim thiên nga cao qúy tối thượng, con mèo, búi tóc bện, kẻ bị mất cái áo choàng, với chuyện con quạ, là mười. 

--ooOoo--



Phiên bản thư viện demo v4.5 [Tipiṭaka Tiếng Việt] Theravada