Duyên khởi ở thành Sāvatthī: Vào lúc bấy giờ, tỳ khưu ni Thullanandā sau khi không xả bỏ chỗ trú ngụ đã ra đi du hành. Vào lúc bấy giờ, chỗ trú ngụ của tỳ khưu ni Thullanandā bị cháy. Các tỳ khưu ni đã nói như vy: - “Này các ni sư, chúng ta hãy mang đ đc ra ngoài đi.” Một số vị ni đã nói như vy: - “Này các ni sư, chúng ta sẽ không mang ra ngoài. Bất cứ vật gì bị hư hỏng, cô ta sẽ gán trách nhiệm cho chúng ta.” Tỳ khưu ni Thullanandā sau khi quay trở về lại chỗ trú ngụ ấy đã hỏi các tỳ khưu ni rng: - “Này các ni sư, các cô có mang đ đc ra ngoài không?” - “Này ni sư, chúng tôi đã không mang ra ngoài.” Tỳ khưu ni Thullanandā phàn nàn, phê phán, chê bai rằng: - “Vì sao trong khi chỗ trú ngụ đang bị cháy các tỳ khưu ni li không mang đ đạc ra ngoài?”

Các tỳ khưu ni nào ít ham mun, ―(như trên)― các vị ni ấy phàn nàn, phê phán, chê bai rằng: - “Vì sao ni sư Thullanandā khi chưa xả bỏ chỗ trú ngụ lại ra đi du hành?” ―(như trên)― “Này các tỳ khưu, nghe nói t khưu ni Thullanandā khi chưa xả bỏ chỗ trú ngụ lại ra đi du hành, có đúng không vậy?” - “Bạch Thế Tôn, đúng vy.” Đức Phật Thế Tôn đã khiển trách rằng: ―(như trên)― Này các tỳ khưu, vì sao tỳ khưu ni Thullanandā khi chưa xả bỏ chỗ trú ngụ lại ra đi du hành vậy? Này các tỳ khưu, sự việc này không đem lại niềm tin cho những kẻ chưa có đc tin, ―(như trên)― Và này các tỳ khưu, các t khưu ni hãy phổ biến điều học này như vầy:

“Vị tỳ khưu ni nào khi chưa xả bỏ chỗ trú ngụ mà ra đi du hành thì phạm tội pācittiya.”

Vị ni nào: là bất cứ vị ni nào ―(như trên)

Tỳ khưu ni: ―(như trên)― vị ni này là ‘vị tỳ khưu ni’ đưc đề cập trong ý nghĩa này.

Chỗ trú ngụ nghĩa là (chỗ trú ngụ) có gắn cánh cửa đưc đề cập đến.

Khi chưa xả bỏ mà ra đi du hành: Sau khi chưa xả bỏ cho vị tỳ khưu ni, hoặc cô ni tu tập sự, hoặc vị sa di ni, trong khi vượt qua hàng rào của chỗ trú ngụ được rào lại vị ni phạm tội pācittiya. Trong khi vượt qua vùng phụ cận của chỗ trú ngụ không được rào lại, vị ni phạm tộipācittiya.

Khi chưa xả bỏ, nhận biết là chưa xả bỏ, vị ni ra đi thì phạm tội pācittiya. Khi chưa xả bỏ, có sự hoài nghi, vị ni ra đi thì phạm tội pācittiya. Khi chưa xả bỏ, (lầm) tưng là đã xả bỏ, vị ni ra đi thì phạm tội pācittiya.

Vị ni ra đi khi chưa xả bỏ chỗ không có gắn cánh cửa thì phạm tội dukkaṭa. Khi đã xả bỏ, (lầm) tưng là chưa xả bỏ, phạm tội dukkaṭa. Khi đã xả bỏ, có sự hoài nghi, phạm tội dukkaṭa. Khi đã xả bỏ, nhận biết là đã xả bỏ thì vô tội.

Sau khi đã xả bỏ rồi ra đi, khi có sự nguy hiểm, sau khi tìm kiếm (ngưi để trông nom chỗ trú ngụ) nhưng không có, vị ni bị bệnh, trong những lúc có sự cố, vị ni bị điên, ―(như trên)― vị ni vi phạm đầu tiên thì vô tội.”

Điều học thứ tám.

--ooOoo--



Phiên bản thư viện demo v4.5 [Tipiṭaka Tiếng Việt] Theravada