111. Haṃsi tvaṃ evamaññasi seyyo puttena pitāti rājaseṭṭha, handassatarassa te ayaṃ assatarassa hi gadrabho pitā ”ti.

1. Gadrabhapañho. 

111. Tâu đấng chí tôn, nếu ngài nghĩ rằng: ‘Người cha là tốt hơn so với người con,’ vậy thì con lừa này, đối với ngài, phải cao giá hơn con la, bởi vì con lừa là cha của con la.

Câu hỏi về Con Lừa 

Tâu Đại vương, ngài vẫn nghĩ rằng
Con luôn thua kém bậc cha ông?
Thế thì lừa phải hơn la chứ,
Lừa ấy với la chính phụ thân!

(Gs. Phương Lan)

Câu chuyện 111

112. Yena sattubilaṅgā ca diguṇapalāso ca pupphito, yenādāmi tena vadāmi yena nādāmi na tena vadāmi, esa maggo yavamajjhakasasa etaṃ channapathaṃ vijānāhī ”ti.

2. Amarādevīpañho. 

112. Theo hướng đi có tiệm bánh và tiệm cháo, rồi có cây song diệp đã được trổ hoa; thiếp cho bằng tay nào thì thiếp nói về hướng đó, thiếp không nói về hướng phía bên tay mà thiếp không cho; con đường ấy dẫn đến ngôi làng Yavamajjhaka, chàng hãy nhận biết lối đi đã được che giấu ấy.

Câu hỏi của Hoàng Hậu Amarā 

Nhờ món bánh và cháo nấu nhừ,
Cùng cây song điệp trổ muôn hoa,
Bàn tay thiếp để ăn và chỉ,
Chẳng phải bàn tay thiếp bỏ qua,
Đó chính là đường đi thị trấn,
Con đường bí mật phải tìm ra.

(Gs. Phương Lan)

113. Saddahāsi sigālassa surāpītassa brāhmaṇa, sippikānaṃ sataṃ natthi kuto kaṃsasatā duve ”ti.

3. Sigālajātakaṃ. 

113. Này Bà-la-môn, chớ tin vào con chó rừng đã uống rượu. Một trăm tiền vỏ sò còn không có, từ đâu mà có hai trăm đồng tiền vàng?

Bổn sanh Chó Rừng 

Ông tin chó rừng say,
Hỡi Bà-la-môn ơi!
Trăm tiền ốc chả có,
Ðâu có hai trăm vàng?

114. Bahucintī appacintī ca ubho jāle abajjhare, mitacintī amocesi ubho tattha samāgatā ”ti.

4. Mitacintijātakaṃ. 

114. Cả hai (con cá tên) Suy Nghĩ Nhiều và Suy Nghĩ Ít đã bị sa vào lưới. Con cá Suy Nghĩ Chừng Mực đã cứu thoát chúng; cả hai đã gặp nhau tại nơi ấy.

Bổn sanh Con Cá Suy Nghĩ Chừng Mực 

"Nghĩ nhiều" và "Nghĩ ít"
Cả hai đều mắc lưới,
Chỉ có "Nghĩ đúng mức"
Giải thoát cho bọn chúng,
Cả ba đã gặp nhau,
Chính tại con sông này,

115. Yāyaññamanusāsati sayaṃ loluppacāriṇī, sāyaṃ vipakkhikā seti hatā cakkena sāḷikā ”ti.

5. Anusāsikajātakaṃ.

115. Con chim cái nào chỉ dạy kẻ khác, còn bản thân có hành vi tham lam, chính con chim cái này, với cặp cánh bị tổn thương, nằm dài, bị bánh xe cán chết.

Bổn sanh Con Chim Cái Chỉ Dạy 

Ai khuyên răn kẻ khác,
Tự mình chạy theo tham,
Bị gãy cánh nằm xuống,
Bánh xe giết đời chim.

116. Atikaramakarācariya mayhampetaṃ na ruccati, catutthe laṅghayitvāna pañcamiyasmiṃ āvuto ”ti.

6. Dubbacajātakaṃ. 

116. Thưa thầy, thầy đã làm công việc vượt quá khả năng; việc này không làm cho con thích thú. Sau khi vượt qua ngọn giáo thứ tư, người thầy đã bị đâm dính ở ngọn giáo thứ năm.

Bổn sanh Kẻ Khó Bảo 

Thưa sư trưởng, vì thầy
Làm quá sức của thầy,
Thầy không ưa, không thích
Lời khuyên này của tôi
Bốn giáo, thầy múa qua,
Ngọn thứ năm đâm chết.

Câu chuyện 116

117. Accuggatā atibalatā ativelaṃ pabhāsitā, vācā hanati dummedhaṃ tittiraṃvātivassitan ”ti.

7. Tittirajātakaṃ. 

117. Lời nói được thốt lên vang xa quá mức, có năng lực quá lớn, chiếm quá nhiều thời gian, giết chết kẻ ngu muội, tựa như tiếng kêu quá lớn giết chết con chim đa đa.

Bổn sanh Chim Đa Đa. 

Lời quá thời cao mạnh
Ðưa chết cho người nói,
Chim đa đa mất mạng,
Vì ngu, hót quá lời.

118. Nācintayanto puriso visesamadhigacchati, cintitassa phalaṃ passa muttosmi vadhabandhanā ”ti.

8. Vaṭṭakajātakaṃ. 

118. Con người không suy nghĩ, không đạt đến mục đích. Hãy nhìn xem kết quả của việc suy nghĩ, ta đã được thoát khỏi sự chết chóc và giam cầm.

Bổn sanh Chim Cút. 

Không suy nghĩ, người này,
Không được lợi đặc biệt,
Hãy xem quả suy tư!
Ta thoát trói, thoát chết.

Câu chuyện 118

119. Amātāpitarisaṃvaddho anācariyakule vasaṃ, nāyaṃ kālaṃ akālaṃ vā abhijānāti kukkuṭo ”ti.

9. Akālarāvijātakaṃ. 

119. Lớn lên không có mẹ và cha, không sống ở nhà của thầy dạy học, con gà trống này không biết rõ thời điểm hay không phải là thời điểm.

Bổn sanh Gà Gáy Phi Thời. 

Không mẹ cha nuôi dưỡng,
Không thầy, dạy dỗ nó,
Con gà này không biết
Ðúng thời hay phi thời.

120. Abaddhā tattha bajjhanti yattha bālā pabhāsare, baddhāpi tattha muccanti yattha dhīrā pabhāsare ”ti.

10. Bandhanamokkhajātakaṃ.

120. Nơi nào những kẻ ngu phát biểu, nơi ấy những người không bị trói buộc (sẽ) bị trói buộc. Nơi nào các bậc sáng trí phát biểu, nơi ấy ngay cả những người đã bị trói buộc cũng được tự do.  

Bổn sanh Thoát Khỏi Sự Trói Buộc

Chỗ nào kẻ ngu nói,
Chúng trói kẻ vô tội,
Chỗ nào bậc trí nói,
Cứu thoát kẻ bị trói.

Haṃsavaggo dvādasamo.

*****

Phẩm Thiên Nga là thứ mười hai.  

*****

TASSUDDĀNA 

Atha gadrabhasattu cakaṃsasataṃ bahucintisāsikāyātikara, ativelavisesamanācariyo ca dhīrāpahāsaratena dasa.

--ooOoo-- 

TÓM LƯỢC PHẨM NÀY 

Giờ đến con lừa, bánh bột, và trăm đồng tiền vàng,suy nghĩ nhiều, con chim cái, công việc vượt quá khả năng,quá nhiều thời gian, mục đích, và không thầy dạy học,

với việc thốt lên của bậc sáng trí, là mười.     

--ooOoo-- 



Phiên bản thư viện demo v4.5 [Tipiṭaka Tiếng Việt] Theravada