Duyên khởi ở thành Sāvatthī: Vào lúc bấy giờ, có tỳ khưu ni nọ là vị thường tới lui với các gia đình và là vị nhận bữa ăn thường kỳ của gia đình nọ. Khi ấy vào buổi sáng, vị tỳ khưu ni ấy đã mặc y cầm y bát rồi đi đến gia đình ấy, sau khi đến đã ngồi xuống ở chỗ ngồi[3] rồi đã ra đi không thông báo các chủ nhân.
Người nữ nô tỳ của gia đình ấy trong lúc quét nhà đã bỏ chỗ ngồi ấy bên trong cái thùng. Trong khi không nhìn thấy chỗ ngồi ấy, mọi người đã nói với tỳ khưu ni ấy điều này: - “Thưa ni sư, chỗ ngồi ấy đâu rồi?” - “Này các đạo hữu, tôi không nhìn thấy chỗ ngồi ấy.” - “Thưa ni sư, hãy đưa ra chỗ ngồi ấy.” Họ đã chê trách và đã ngưng lại bữa ăn thường kỳ. Sau đó, những người ấy trong khi làm sạch sẽ nhà đã nhìn thấy chỗ ngồi ấy ở bên trong cái thùng nên đã xin lỗi vị tỳ khưu ni ấy và thiết lập lại bữa ăn thường kỳ.
Sau đó, vị tỳ khưu ni ấy đã kể lại sự việc ấy cho các tỳ khưu ni. Các tỳ khưu ni nào ít ham muốn, ―(như trên)― các vị ni ấy phàn nàn, phê phán, chê bai rằng: - “Vì sao tỳ khưu ni sau khi đi đến các gia đình trước bữa ăn và ngồi xuống trên chỗ ngồi lại ra đi không thông báo các chủ nhân?” ―(như trên)― “Này các tỳ khưu, nghe nói vị tỳ khưu ni sau khi đi đến các gia đình trước bữa ăn và ngồi xuống trên chỗ ngồi rồi ra đi không thông báo các chủ nhân, có đúng không vậy?” - “Bạch Thế Tôn, đúng vậy.” Đức Phật Thế Tôn đã khiển trách rằng: ―(như trên)― Này các tỳ khưu, vì sao tỳ khưu ni sau khi đi đến các gia đình trước bữa ăn và ngồi xuống trên chỗ ngồi lại ra đi không thông báo các chủ nhân vậy? Này các tỳ khưu, sự việc này không đem lại niềm tin cho những kẻ chưa có đức tin, ―(như trên)― Và này các tỳ khưu, các tỳ khưu ni hãy phổ biến điều học này như vầy:
“Vị tỳ khưu ni nào sau khi đi đến các gia đình trước bữa ăn và ngồi xuống trên chỗ ngồi rồi ra đi không thông báo các chủ nhân thì phạm tội pācittiya.”
Vị ni nào: là bất cứ vị ni nào ―(như trên)―
Tỳ khưu ni: ―(như trên)― vị ni này là ‘vị tỳ khưu ni’ được đề cập trong ý nghĩa này.
Trước bữa ăn nghĩa là từ lúc mặt trời mọc cho đến giữa trưa.
Gia đình nghĩa là có bốn loại gia đình: gia đình Sát-đế-lỵ, gia đình Bà-la-môn, gia đình thương buôn, và gia đình hạng cùng đinh.
Sau khi đi đến: sau khi đã đến nơi ấy.
Chỗ ngồi nghĩa là chỗ của tư thế kiết già được đề cập đến.
(Sau khi) ngồi xuống: sau khi ngồi xuống ở nơi ấy.
Ra đi không thông báo các chủ nhân: không thông báo người có trí suy xét ở gia đình ấy. Trong khi vượt qua mái che mưa thì phạm tội pācittiya. Ở ngoài trời, trong khi vượt qua vùng lân cận thì phạm tội pācittiya.
Khi chưa thông báo, nhận biết là chưa thông báo, vị ni ra đi thì phạm tội pācittiya. Khi chưa thông báo, có sự hoài nghi, vị ni ra đi thì phạm tội pācittiya. Khi chưa thông báo, (lầm) tưởng là đã thông báo, vị ni ra đi thì phạm tội pācittiya.
Không phải là chỗ của tư thế kiết già thì phạm tội dukkaṭa. Khi đã thông báo, (lầm) tưởng là chưa thông báo, phạm tội dukkaṭa. Khi đã thông báo, có sự hoài nghi, phạm tội dukkaṭa. Khi đã thông báo, nhận biết là đã thông báo thì vô tội.
Vị ni đi khi đã thông báo, ở chỗ ngồi không thể di động, vị ni bị bệnh, trong những lúc có sự cố, vị ni bị điên, ―(như trên)― vị ni vi phạm đầu tiên thì vô tội.”
Điều học thứ năm.
--ooOoo--
Phiên bản thư viện demo v4.5 [Tipiṭaka Tiếng Việt] Theravada