Surāpānajātakaṃ - Bổn Sanh Uống Rượu
81. Apāyimha anaccimha agāyimha rudimha ca, visaññakaraniṃ pītvā diṭṭhā nāhumha vānarā ”ti.
81. Chúng tôi đã uống (rượu), chúng tôi đã múa, chúng tôi đã hát, và chúng tôi đã khóc. Sau khi uống chất làm cho không còn tỉnh táo (rượu), chúng tôi được nhìn thấy còn chưa hóa thành những con khỉ.
Chúng con đã uống rượu,
Ðã hát, múa và khóc,
Uống rượu mất lý trí,
Ðâu được hóa thành vượn ?
Mittavindajātakaṃ - Bổn Sanh Mittavinda
82. Atikkamma ramaṇakaṃ sadāmattañca dūbhakaṃ, svāsi pāsāṇamāsīno yasmā jīvaṃ na mokkhasī ”ti.
82. Sau khi đã đi qua tòa lâu đài bằng pha-lê, bằng bạc, và bằng ngọc ma-ni, ngươi đây đã ngồi vào tảng đá; vì thế ngươi sẽ không thoát khỏi cuộc sống (khổ hình cho đến khi nào nghiệp ác được chấm dứt).
Thế là vượt qua rồi
Lâu đài bằng thủy tinh
Bằng bạc, bằng châu báu,
Khi ngươi đã đội vào
Chiếc mũ bằng đá cứng
Trọn đời ngươi không thoát.
3. Kālakaṇṇijātakaṃ - Bổn Sanh Kālakaṇṇī
83. Mitto have sattapadena hoti sahāyo pana dvādasakena hoti, māsaddhamāsena ca ñāti hoti tatuttariṃ attasamopi hoti, sohaṃ kathaṃ attasukhassa hetu cirasanthutaṃ kāla kaṇṇiṃ jaheyyan ”ti.
83. Thật vậy, với bảy bước chân đi (cạnh nhau) là bạn bè, hơn nữa, với mười hai ngày (cộng sự) là thân hữu, và với một tháng (hay) nửa tháng (sống chung) là bà con, hơn thế nữa thì được xem như là bản thân mình vậy. Làm sao ta đây vì nguyên nhân của sự sung sướng cho bản thân mà có thể từ bỏ Kālakaṇṇī đã được thân thiết lâu nay?
Bạn quen chính là người
Ði bảy bước giúp đỡ
Bạn thân mới là người
Ði đến mười hai bước
Thời gian tháng, nửa tháng,
Mới thật là bà con
Thời gian có dài hơn,
Mới thật là bằng ta
Sao ta lại có thể
Vì an lạc của ta,
Ðuổi Kà-la-kan-ni,
Người ta biết đã lâu?
Atthassadvārajātakaṃ - Bổn Sanh Cánh Cửa Đưa Đến Tấn Hóa
84. Ārogyamicche paramañca lābhaṃ sīlañca vuddhānumataṃ sutañca, dhammānuvattī ca alīnatā ca atthassa dvārā pamukhā chaḷete ”ti.
84. Nên ước muốn sự không bệnh–là sự đạt được tối thắng, và giới hạnh, sự tùy thuận đối với các bậc trưởng thượng, và sự lắng nghe, sự hành theo Giáo Pháp, và trạng thái không lui sụt, sáu điều này những cánh cửa chính yếu đưa đến sự tấn hóa.
Hãy tìm cầu không bệnh,
Là lợi đắc tối thượng.
Giữ giới, kính trưởng thượng,
Biết nghe học kinh điển.
Hãy tùy thuận Chánh pháp,
Thoát ly các chấp thủ,
Chính sáu cửa ngõ này
Ðưa đến chân hạnh phúc.
Kiṃpakkajātakaṃ - Bổn Sanh Trái Cây Kiṃpakka
85. Āyatidosaṃ nāññāya yo kāme patisevati, vipākante hananti naṃ kiṃpakka miva bhakkhitan ”ti.
85. Sau khi không biết sự tai hại ở tương lai, kẻ nào theo đuổi các dục, các dục giết chết kẻ ấy vào giai đoạn cuối của sự thành tựu quả báo, tựa như trái cây kiṃpakka đã được ăn vào (sẽ giết chết kẻ đã ăn trái cây ấy).
Không biết hại tương lai,
Ai thọ dụng các dục,
Quả chín, chúng khổ não,
Như ăn Kim-pak-ka.
Sīlavīmaṃsajātakaṃ - Bổn Sanh Suy Xét Về Giới
86. Sīlaṃ kireva kalyāṇaṃ sīlaṃ loke anuttaraṃ, passa ghoraviso nāgo sīlavā ’ti na haññatī ”ti.
86. Nghe rằng giới quả thật là tốt đẹp, giới là vô thượng ở thế gian. Ngươi hãy nhìn xem, con rắn có chất độc dữ dội (không cắn người) được khen là ‘có giới,’ nó không bị giết chết.
Giới được xem chí thiện
Giới vô thượng ở đời
Hãy xem con rắn độc
Có giới không làm hại.
Maṅgalajātakaṃ - Bổn Sanh Các Điềm Lành
87. Yassa maṅgalā samūhatā uppātā supinā ca lakkhaṇā ca, samaṅgala dosavītivatto yugayogādhigato na jātumetī ”ti.
87. Đối với vị nào, các điềm lành, các (hiện tượng) sao băng, các giấc chiêm bao, và các dấu hiệu (báo trước) đã được nhổ lên, vị ấy đã vượt qua các điềm lành và điềm xấu, đã ngự trị các ách (ô nhiễm) và các sự ràng buộc, không đi đến tái sanh.
Ai thoát điềm lành dữ,
Thoát mộng và các tướng,
Vị ấy vượt qua được
Lỗi lầm do mê tín,
Hai ách được nhiếp phục,
Không còn phải tái sanh.
8. Sārambhajātakaṃ - Bổn Sanh Bò Kéo Sārambha
88. Kalyāṇimeva muñceyya na hi muñceyya pāpikaṃ, mokkho kalyāṇiyā sādhu mutvā tapati pāpikan ”ti.
88. Nên thốt ra lời tốt lành thôi, không nên thốt ra lời ác độc. Việc thốt ra lời tốt lành là tốt đẹp, sau khi thốt ra lời ác độc thì bị nóng nảy.
Hãy nói lời tốt lành,
Chớ nói lời độc ác,
Lành thay, lời tốt lành!
Lời ác sanh ưu não.
9. Kuhakajātakaṃ - Bổn Sanh Kẻ Lừa Gạt
89. Vācāva kira te āsi saṇhā sakhilabhāṇino, tiṇamatte asajjittho no ca nikkhasataṃ haran ”ti.
89. Nghe rằng lời nói của ngươi–của người có lời nói tử tế–quả là mềm mỏng. Ông đã vương vấn vào vật nhỏ nhoi như là cọng cỏ, nhưng không (vương vấn) trong khi lấy trộm trăm đồng tiền vàng.
Nghe lời của ngươi nói,
Lời nhẹ nhàng êm dịu,
Không dính đến ngọn cỏ,
Mà dính năm trăm vàng.
Akataññūjātakaṃ - Bổn Sanh Kẻ Vô Ơn
90. Yo pubbe katakalyāṇo katattho nāvabujjhati, pacchā kicce samuppanne kattāraṃ nādhigacchatī ”ti.
90. Người nào trước đây đã được (người khác) làm việc tốt lành, đã được (người khác) làm điều lợi ích, mà không ghi nhận (công ơn), sau này khi công việc phát sanh, thì (sẽ) không có được người giúp sức.
Ai trước được làm ơn,
Không biết đáp ứng lại,
Về sau, việc xảy đến,
Không tìm được người giúp.
Apāyimhavaggo navamo.
*****
Phẩm Chúng Tôi Đã Uống là thứ chín.
*****
TASSUDDĀNAṂ
Apāyimha ca dūbhakasattapadaṃ chaḷadvāra ca āyatinā ca puna, ahisīlava maṅgalipāpikassā satanikkhakatatthavarena dasa.
--ooOoo--
TÓM LƯỢC PHẨM NÀY
Chúng tôi đã uống, ngọc ma-ni, và bảy bước chân đi, sáu cánh cửa, và thêm nữa là với việc ở tương lai, con rắn có giới hạnh, điềm lành, và lời nói ác độc, trăm đồng tiền vàng, với điều lợi ích đã được làm, là mười.
--ooOoo--
Phiên bản thư viện demo v4.5 [Tipiṭaka Tiếng Việt] Theravada