Lúc bấy giờ, đức Phật Thế Tôn ngự tại thành Sāvatthī, Jetavana, tu viện của ông Anāthapiṇḍika. Vào lúc bấy giờ, tỳ khưu ni Caṇḍakāī bị xử thua trong cuộc tranh tụng nào đó nên nổi giận, bất bình rồi nói như vầy: - “Các tỳ khưu ni có sự thiên vị vì thương, các tỳ khưu ni có sự thiên vị vì ghét, các tỳ khưu ni có sự thiên vị vì si mê, các tỳ khưu ni có sự thiên vị vì sợ hãi.”

Các tỳ khưu ni nào ít ham mun, ―(như trên)― các vị ni ấy phàn nàn, phê phán, chê bai rằng: - “Vì sao ni sư Caṇḍakāī bị xử thua trong cuộc tranh tụng nào đó nên nổi giận, bất bình rồi nói như vầy: ‘Các tỳ khưu ni có sự thiên vị vì thương, ―(như trên)― các tỳ khưu ni có sự thiên vị vì sợ hãi’?” ―(như trên)― “Này các tỳ khưu, nghe nói t khưu ni Caṇḍakāī bị xử thua trong cuộc tranh tụng nào đó nên nổi giận, bất bình rồi nói như vầy: ‘Các tỳ khưu ni có sự thiên vị vì thương, ―(như trên)― các tỳ khưu ni có sự thiên vị vì sợ hãi,’có đúng không vậy?” - “Bạch Thế Tôn, đúng vy.” Đức Phật Thế Tôn đã khiển trách rằng: ―(như trên)― Này các tỳ khưu, vì sao tỳ khưu ni Caṇḍakāī bị xử thua trong cuộc tranh tụng nào đó nên nổi giận, bất bình rồi nói như vầy: ‘Các tỳ khưu ni có sự thiên vị vì thương, ―(như trên)― các tỳ khưu ni có sự thiên vị vì sợ hãi’? Này các tỳ khưu, sự việc này không đem lại niềm tin cho những kẻ chưa có đc tin, ―(như trên)― Và này các tỳ khưu, các t khưu ni hãy phổ biến điều học này như vầy:

“Vị tỳ khưu ni nào bị xử thua trong cuộc tranh tụng nào đó nên nổi giận, bất bình rồi nói như vầy: ‘Các tỳ khưu ni có sự thiên vị vì thương, các tỳ khưu ni có sự thiên vị vì ghét, các tỳ khưu ni có sự thiên vị vì si mê, các tỳ khưu ni có sự thiên vị vì sợ hãi.’ Vị tỳ khưu ni y nên được nói bởi các tỳ khưu ni như sau: ‘Này ni sư, khi bị xử thua trong cuộc tranh tụng nào đó rồi nổi giận, bất bình chớ nên nói như vầy: Các tỳ khưu ni có sự thiên vị vì thương, các t khưu ni có sự thiên vị vì ghét, các tỳ khưu ni có sự thiên vị vì si mê, các tỳ khưu ni có sự thiên vị vì sợ hãi. Chính ni sư mới thiên vị vì thương, mới thiên vị vì ghét, mới thiên vị vì si mê, mới thiên vị vì sợ hãi.’ Và khi đưc nói như vậy bởi các tỳ khưu ni mà vị tỳ khưu ni ấy vẫn chấp giữ y như thế, vị tỳ khưu ni y nên được các tỳ khưu ni nhắc nhở đến lần thứ ba để từ bỏ việc ấy. Nếu được nhắc nhở đến lần thứ ba mà dứt bỏ việc ấy, như thế việc này là tốt đẹp; nếu không dứt bỏ, vị tỳ khưu ni này cũng phạm tội (khi được nhắc nhở) đến lần thứ ba, là tội saṅghādisesa cn được tách riêng.”

Vị ni nào: là bất cứ vị ni nào ―(như trên)

Tỳ khưu ni: ―(như trên)― vị ni này là ‘vị tỳ khưu ni’ đưc đề cập trong ý nghĩa này.

Trong cuộc tranh tụng nào đó: Tranh tụng nghĩa là có bốn sự tranh tụng: sự tranh tụng liên quan đến tranh cãi, sự tranh tụng liên quan đến khiển trách, sự tranh tụng liên quan đến tội, sự tranh tụng liên quan đến nhiệm vụ.

Bị xử thua nghĩa là bị thất bại đưc đề cập đến.

Nổi giận, bất bình: không được hài lòng, có tâm bực bội, nảy sanh lòng cay cú.

Nói như vầy: “Các tỳ khưu ni có sự thiên vị vì thương, các t khưu ni có sự thiên vị vì ghét, các tỳ khưu ni có sự thiên vị vì si mê, các tỳ khưu ni có sự thiên vị vì sợ hãi.”

Vị tỳ khưu ni ấy: là vị tỳ khưu ni nói như thế ấy.

Bởi các tỳ khưu ni: bởi các tỳ khưu ni khác. Các vị ni nào thấy, các vị ni nào nghe, các vị ni ấy nên nói rằng: “Này ni sư, khi bị xử thua trong cuộc tranh tụng nào đó rồi nổi giận, bất bình chớ nên nói như vầy: ‘Các tỳ khưu ni có sự thiên vị vì thương, ―(như trên)― các tỳ khưu ni có sự thiên vị vì sợ hãi.’ Chính ni sư mới thiên vị vì thương, mới thiên vị vì ghét, mới thiên vị vì si mê, mới thiên vị vì sợ hãi.” Nên đưc nói đến lần thứ nhì. ―(như trên)― Nên đưc nói đến lần thứ ba. ―(như trên)― Nếu (vị ni ấy) dứt bỏ, như thế việc này là tốt đẹp; nếu không dứt bỏ thì phạm tội dukkaṭa. Các vị ni sau khi nghe mà không nói thì phạm tội dukkaṭa. Vị tỳ khưu ni ấy nên đưc kéo đến giữa hội chúng rồi nên được nói rằng: “Này ni sư, khi bị xử thua trong cuộc tranh tụng nào đó rồi nổi giận, bất bình chớ nên nói như vầy: ‘Các tỳ khưu ni có sự thiên vị vì thương, ―(như trên)― các tỳ khưu ni có sự thiên vị vì sợ hãi.’ Chính ni sư mới thiên vị vì thương, ―(như trên)― mới thiên vị vì sợ hãi.” Nên đưc nói đến lần thứ nhì. ―(như trên)― Nên đưc nói đến lần thứ ba. ―(như trên)― Nếu (vị ni ấy) dứt bỏ, như thế việc này là tốt đẹp; nếu không dứt bỏ thì phạm tội dukkaṭa. Vị tỳ khưu ni ấy cần được nhắc nhở. Và này các tỳ khưu, nên được nhắc nhở như vầy: Hội chúng cần được thông báo bởi vị tỳ khưu ni có kinh nghim, đ năng lực:

Bạch chư đi đức ni, xin hội chúng hãy lắng nghe tôi. Tỳ khưu ni này tên (như vầy) bị xử thua trong cuộc tranh tụng nào đó nên nổi giận, bất bình rồi nói như vầy: ‘Các tỳ khưu ni có sự thiên vị vì thương, ―(như trên)― các tỳ khưu ni có sự thiên vị vì sợ hãi.’ Vị ni ấy không chịu từ bỏ sự việc ấy. Nếu là thời điểm thích hợp cho hội chúng, hội chúng nên nhắc nhở tỳ khưu ni tên (như vy) để dứt bỏ sự việc ấy. Đây là li đề nghị.

 Bạch chư đi đức ni, xin hội chúng hãy lắng nghe tôi. Tỳ khưu ni này tên (như vầy) bị xử thua trong cuộc tranh tụng nào đó nên nổi giận, bất bình rồi nói như vầy: ‘Các tỳ khưu ni có sự thiên vị vì thương, ―(như trên)― các tỳ khưu ni có sự thiên vị vì sợ hãi.’ Vị ni ấy không chịu từ bỏ sự việc ấy. Hội chúng nhắc nhở tỳ khưu ni tên (như vy) để dứt bỏ sự việc ấy. Đi đc ni nào đồng ý việc nhắc nhở tỳ khưu ni tên (như vy) để dứt bỏ sự việc ấy xin im lặng; vị ni nào không đồng ý có thể nói lên. Tôi xin thông báo sự việc này lần thứ nhì: ―(như trên)― Tôi xin thông báo sự việc này lần thứ ba: ―(như trên)― T khưu ni tên (như vy) đã được hội chúng nhắc nhở để dứt bỏ sự việc ấy. Sự việc được hội chúng đồng ý nên mới im lặng, tôi ghi nhận sự việc này là như vậy.”

Do lời đề nghị thì phạm tội dukkaṭa. Do hai lời thông báo của hành sự thì phạm các tộithullaccaya. Khi chấm dứt tuyên ngôn hành sự thì phạm tội saṅghādisesa. Đối với vị ni vi phạm tội saṅghādisesa, thì tội dukkaṭa do lời đề nghị và các tội thullaccaya do hai lời thông báo của hành sự hết hiệu lực.

Vị ni này cũng: đưc đề cập có liên quan đến các vị ni trưc đây.

(Khi được nhắc nhở) đến lần thứ ba: vị ni vi phạm tội do sự nhắc nhở đến lần thứ ba, không phải do thực hiện sự việc.

Cần được tách riêng: bị tách riêng ra khỏi hội chúng.

Tội saṅghādisesa: ―(như trên)― vì thế được gọi là ‘tội saṅghādisesa.’

Hành sự đúng Pháp, nhận biết là hành sự đúng Pháp, vị ni không dứt bỏ thì phạm tội saṅghādisesa. Hành sự đúng Pháp, có sự hoài nghi, vị ni không dứt bỏ thì phạm tộisaṅghādisesa. Hành sự đúng Pháp, (lm) tưởng là hành sự sai Pháp, vị ni không dứt bỏ thì phạm tội saṅghādisesa.

Hành sự sai Pháp, (lầm) tưởng là hành sự đúng Pháp, phạm tội dukkaṭa. Hành sự sai Pháp, có sự hoài nghi, phạm tội dukkaṭa. Hành sự sai Pháp, nhận biết là hành sự sai Pháp, phạm tộidukkaṭa.

Vị ni chưa được nhắc nhở, vị ni dứt bỏ, vị ni bị điên, ―(như trên)― vị ni vi phạm đầu tiên thì vô tội.”

Điều saṅghādisesa thứ tám.

--ooOoo--



Phiên bản thư viện demo v4.5 [Tipiṭaka Tiếng Việt] Theravada