Lúc bấy giờ, đức Phật Thế Tôn ngự tại thành Sāvatthī, Jetavana, tu viện của ông Anāthapiṇḍika. Vào lúc bấy giờ, tỳ khưu ni Thullanandā xu hướng theo tỳ khưu Ariṭṭha trưc đây là người huấn luyện chim ưng (là v) đã bị hội chúng hợp nhất phạt án treo. Các tỳ khưu ni nào ít ham mun, ―(như trên)― các vị ni ấy phàn nàn, phê phán, chê bai rằng: - “Vì sao ni sư Thullanandā li xu hướng theo tỳ khưu Ariṭṭha trưc đây là người huấn luyện chim ưng (là v) đã bị hội chúng hợp nhất phạt án treo?” ―(như trên)― “Này các tỳ khưu, nghe nói t khưu ni Thullanandā xu hướng theo tỳ khưu Ariṭṭha trưc đây là người huấn luyện chim ưng (là v) đã bị hội chúng hợp nhất phạt án treo, có đúng không vậy?” - “Bạch Thế Tôn, đúng vy.” Đức Phật Thế Tôn đã khiển trách rằng: ―(như trên)― Này các tỳ khưu, vì sao tỳ khưu ni Thullanandā li xu hướng theo tỳ khưu Ariṭṭha trưc đây là người huấn luyện chim ưng (là v) đã bị hội chúng hợp nhất phạt án treo vậy? Này các tỳ khưu, sự việc này không đem lại niềm tin cho những kẻ chưa có đc tin, ―(như trên)― Và này các tỳ khưu, các t khưu ni hãy phổ biến điều học này như vầy:

“Vị tỳ khưu ni nào xu hướng theo vị tỳ khưu đã bị hội chúng hợp nhất phạt án treo là vị (tỳ khưu) không tôn trọng, không hối cải, không thể hiện tình đng đạo theo Pháp, theo Luật, theo lời giáo huấn của bậc Đo Sư. Vị tỳ khưu ni y nên được nói bởi các tỳ khưu ni như sau: ‘Này ni sư, vị tỳ khưu y đã bị hội chúng hợp nhất phạt án treo là vị (tỳ khưu) không tôn trọng, không hối cải, không thể hiện tình đng đạo theo Pháp, theo Luật, theo lời giáo huấn của bậc Đo Sư. Này ni sư, ch có xu hướng theo vị tỳ khưu y.’ Và khi đưc nói như vậy bởi các tỳ khưu ni mà vị tỳ khưu ni ấy vẫn chấp giữ y như thế, thì vị tỳ khưu ni y nên được các tỳ khưu nhắc nhở đến lần thứ ba để từ bỏ việc ấy. Nếu được nhắc nhở đến lần thứ ba mà dứt bỏ việc ấy, như thế việc này là tốt đẹp; nếu không dứt bỏ, vị ni này cũng là vị phạm tội pārājika, không được cộng trú, là người nữ xu hướng theo kẻ bị phạt án treo.”

Vị ni nào: là bất cứ vị ni nào ―(như trên)

Tỳ khưu ni: ―(như trên)― vị ni này là ‘vị tỳ khưu ni’ đưc đề cập trong ý nghĩa này.

Hội chúng hợp nhất nghĩa là có sự đồng cộng trú được thiết lập trong cùng ranh giới.

Bị phạt án treo nghĩa là bị phạt án treo trong việc không nhìn nhận tội, hoặc trong việc không sửa chữa lỗi, hoặc trong việc không từ bỏ tà kiến ác.

Theo Pháp, theo Luật: theo Pháp nào đó, theo Lut nào đó.

Theo lời giáo huấn của bậc Đo Sư: theo lời giáo huấn của đấng Chiến Thắng, theo lời giáo huấn của đức Phật.

Không tôn trọng nghĩa là vị không tuân theo hội chúng hoặc (không tuân theo) cá nhân hoặc (không tuân theo) hành sự.

Không hối cải nghĩa là bị phạt án treo chưa được thu hồi.

Không thể hiện tình đng đạo nghĩa là các tỳ khưu có s đồng cộng trú giống nhau được gọi là các đng đạo. Vị ấy không có điều ấy với các vị ấy, vì thế được gọi là ‘không thể hiện tình đng đạo.’

Xu hướng theo vị ấy: vị ấy có quan điểm gì, có điều mong mỏi gì, có sự thích ý gì thì cô ni ấy cũng có quan điểm ấy, có điều mong mỏi ấy, có sự thích ý ấy.

Vị tỳ khưu ni ấy: là vị tỳ khưu ni xu hướng theo vị bị phạt án treo.

Bởi các tỳ khưu ni: bởi các tỳ khưu ni khác. Các vị ni nào thấy, các vị ni nào nghe, các vị ni ấy nên nói rằng: “Này ni sư, vị tỳ khưu y đã bị hội chúng hợp nhất phạt án treo là vị (tỳ khưu) không tôn trọng, không hối cải, không thể hiện tình đng đạo theo Pháp, theo Luật, theo lời giáo huấn của bậc Đo Sư. Này ni sư, ch có xu hướng theo vị tỳ khưu y.” Nên đưc nói đến lần thứ nhì. ―(như trên)― Nên đưc nói đến lần thứ ba. ―(như trên)Nếu (vị ni ấy) dứt bỏ, như thế việc này là tốt đẹp; nếu không dứt bỏ thì phạm tội dukkaṭa. Các vị ni sau khi nghe mà không nói thì phạm tội dukkaṭa. Vị tỳ khưu ni y nên đưc kéo đến giữa hội chúng rồi nên được nói rằng: “Này ni sư, vị tỳ khưu y đã bị hội chúng hợp nhất phạt án treo là vị (tỳ khưu) không tôn trọng, không hối cải, không thể hiện tình đng đạo theo Pháp, theo Luật, theo lời giáo huấn của bậc Đo Sư. Này ni sư, ch có xu hướng theo vị tỳ khưu y.” Nên đưc nói đến lần thứ nhì. ―(như trên)― Nên đưc nói đến lần thứ ba. ―(như trên)― Nếu (vị ni ấy) dứt bỏ, như thế việc này là tốt đẹp; nếu (vị ni ấy) không dứt bỏ thì phạm tội dukkaṭa. Vị tỳ khưu ni ấy cần được nhắc nhở.

Và này các tỳ khưu, nên được nhắc nhở như vầy: Hội chúng cần được thông báo bởi vị tỳ khưu ni có kinh nghim, đ năng lực:

Bạch chư đi đức ni, xin hội chúng hãy lắng nghe tôi. Vị tỳ khưu ni này tên (như vy) xu hướng theo vị tỳ khưu đã bị hội chúng hợp nhất phạt án treo là vị (tỳ khưu) không tôn trọng, không hối cải, không thể hiện tình đng đạo theo Pháp, theo Luật, theo lời giáo huấn của bậc Đo Sư. Vị ni ấy không chịu từ bỏ sự việc ấy. Nếu là thời điểm thích hợp cho hội chúng, hội chúng nên nhắc nhở tỳ khưu ni tên (như vy) để dứt bỏ sự việc ấy. Đây là li đề nghị.

Bạch chư đi đức ni, xin hội chúng hãy lắng nghe tôi. Vị tỳ khưu ni này tên (như vy) xu hướng theo vị tỳ khưu đã bị hội chúng hợp nhất phạt án treo là vị (tỳ khưu) không tôn trọng, không hối cải, không thể hiện tình đng đạo theo Pháp, theo Luật, theo lời giáo huấn của bậc Đo Sư. Vị ni ấy không chịu từ bỏ sự việc ấy. Hội chúng nhắc nhở tỳ khưu ni tên (như vy) để dứt bỏ sự việc ấy. Đi đc ni nào đồng ý việc nhắc nhở tỳ khưu ni tên (như vy) để dứt bỏ sự việc ấy xin im lặng; vị ni nào không đồng ý có thể nói lên.

Tôi xin thông báo sự việc này lần thứ nhì: ―(như trên)

Tôi xin thông báo sự việc này lần thứ ba: ―(như trên)

Tỳ khưu ni tên (như vy) đã được hội chúng nhắc nhở để dứt bỏ sự việc ấy. Sự việc được hội chúng đồng ý nên mới im lặng, tôi ghi nhận sự việc này là như vậy.”

Do lời đề nghị thì phạm tội dukkaṭa. Do hai lời thông báo của hành sự thì phạm các tộithullaccaya. Khi chấm dứt tuyên ngôn hành sự thì phạm tội pārājika.

Vị ni này cũng: đưc đề cập có liên quan đến các vị ni trưc đây.

Là vị phạm tội pārājika: cũng giống như tng đá lớn bị bể làm hai không thể gắn liền lại đưc, tương t như thế vị tỳ khưu ni khi đang được nhắc nhở đến lần thứ ba vẫn không chịu từ bỏ thì không còn là nữ Sa-môn, không phải là Thích nữ; vì thế được gọi là ‘vị phạm tội pārājika.’

Không được cộng trú: Sự cộng trú nghĩa là có chung hành sự, có chung việc đọc tụng (giới bổn Pātimokkha), có sự học tập giống nhau, điều ấy gọi là sự cộng trú. Vị ni ấy không có đưc điều ấy, vì thế được gọi là ‘không được cộng trú.’

Hành sự đúng Pháp, nhận biết là hành sự đúng Pháp, vị ni không dứt bỏ thì phạm tội pārājika. Hành sự đúng Pháp, có sự hoài nghi, vị ni không dứt bỏ thì phạm tội pārājika. Hành sự đúng Pháp, (lm) tưởng là hành sự sai Pháp, vị ni không dứt bỏ thì phạm tội pārājika.

Hành sự sai Pháp, (lầm) tưởng là hành sự đúng Pháp, phạm tội dukkaṭa. Hành sự sai Pháp, có sự hoài nghi, phạm tội dukkaṭa. Hành sự sai Pháp, nhận biết là hành sự sai Pháp, phạm tộidukkaṭa.

Vị ni chưa được nhắc nhở, vị ni dứt bỏ, vị ni bị điên, ―(như trên)― vị ni vi phạm đầu tiên thì vô tội.”

Dứt điu pārājika thứ ba.

--ooOoo--



Phiên bản thư viện demo v4.5 [Tipiṭaka Tiếng Việt] Theravada