Lúc bấy giờ, đức Phật Thế Tôn ngự tại thành Sāvatthī, Jetavana, tu viện của ông Anāthapiṇḍika. Vào lúc bấy giờ, các tỳ khưu nhóm Lục Sư đại tiện, tiểu tiện, khạc nhổ vào trong nước. Dân chúng phàn nàn, phê phán, chê bai rằng: - “Tại sao các Sa-môn Thích tử lại đại tiện, tiểu tiện, khạc nhổ vào trong nước giống như những kẻ tại gia hưởng dục vậy?”

Các tỳ khưu đã nghe được những người ấy phàn nàn, phê phán, chê bai. Các tỳ khưu ít ham mun, ―(như trên)― các vị ấy phàn nàn, phê phán, chê bai rằng: - “Vì sao các tỳ khưu nhóm Lc Sư li đại tiện, tiểu tiện, khạc nhổ vào trong nưc?” ―(như trên)― “Này các tỳ khưu, nghe nói các ngươi đại tiện, tiểu tiện, khạc nhổ vào trong nưc, có đúng không vậy?” - “Bạch Thế Tôn, đúng vy.” Đức Phật Thế Tôn đã khiển trách rằng: ―(như trên)― Này những kẻ rồ dại, vì sao các ngươi li đại tiện, tiểu tiện, khạc nhổ vào trong nước vậy? Này những kẻ rồ dại, sự việc này không đem lại niềm tin cho những kẻ chưa có đc tin, ―(như trên)― Và này các tỳ khưu, các ngươi nên phổ biến điều học này như vầy:

“‘Ta sẽ không đại tiện hoặc tiểu tiện hoặc khạc nhổ vào trong nước’ là việc học tập nên được thực hành.”

Và điều học này đã đưc đức Thế Tôn quy định cho các tỳ khưu như thế.

Vào lúc bấy giờ, các tỳ khưu bị bệnh ngần ngại đại tiện, tiểu tiện, khạc nhổ vào trong nước. Các vị đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn. Khi ấy, đức Thế Tôn nhân lý do ấy nhân sự kiện ấy đã nói Pháp thoại rồi bảo các tỳ khưu rằng: - “Này các tỳ khưu, ta cho phép vị tỳ khưu bị bệnh đưc đại tiện, tiểu tiện, khạc nhổ vào trong nước. Và này các tỳ khưu, các ngươi nên phổ biến điều học này như vầy:

“Khi không bị bệnh, ta sẽ không đại tiện hoặc tiểu tiện hoặc khạc nhổ vào trong nước’ là việc học tập nên được thực hành.”

Khi không bị bệnh, không nên đại tiện hoặc tiểu tiện hoặc khạc nhổ vào trong nước. Vị nào không bị bệnh đại tiện hoặc tiểu tiện hoặc khạc nhổ vào trong nước do không có sự tôn trọng thì phạm tội dukkaṭa.

Không cố ý, khi thất niệm, vị không biết, vị bị bệnh, sau khi thực hiện trên đất rồi xối nước, trong những lúc có sự cố, vị bị điên, vị có tâm bị rối loạn, vị bị thọ khổ hành hạ, vị vi phạm đầu tiên thì vô tội.”

Phẩm Giày Dép là thứ bảy.

--ooOoo--

Phần Tóm Lược

(Mặc y ) tròn đu, được che kín, khéo thu thúc, với mắt nhìn xuống, được vén lên, tiếng cười vang, với giọng nói nhỏ nhẹ, và luôn cả ba điều về sự đung đưa.

Sự chống nạnh, trùm đầu, luôn cả sự nhón gót, và ôm đầu gối, (thọ lãnh) một cách nghiêm trang, có sự chú tâm ở bình bát, lưng xúp tương xứng, và vừa ngang miệng (bình bát).

(Thọ dụng) một cách nghiêm trang, và có sự chú tâm ở bình bát, theo tuần tự, với lưng xúp tương xng, vun lên thành đống, và che lấp, việc yêu cầu, với ý định tìm lỗi.

Không quá lớn, tròn đều, cửa miệng, trọn bàn tay, không nói, việc đưa lên (liên tục), việc cắn (từng chút), việc phồng má, việc vung rảy, việc làm rơi đ cơm.

Và luôn cả sự le lưỡi, tiếng chép chép, với tiếng sột sột, (liếm) bàn tay, (nạo vét) bình bát, và (liếm) môi, (bàn tay) có dính thức ăn, và (nước rửa bình bát) có lẫn cơm.

Các đc Như Lai không thuyết giảng Chánh Pháp đến người có dù ở bàn tay, y như thế đến người có gậy ở bàn tay, và những người có dao và vũ khí ở bàn tay.

Và luôn cả người mang giày, dép, ở trên xe, và đang nm, đến người ngồi ôm đầu gối, đu đi khăn, và được trùm lại.

Nền đất, ở chỗ ngồi thấp, đng, (đi) phía sau, và (đi) bên đường, vị đứng không nên làm, ở cỏ cây xanh, và vào trong nước.

--ooOoo--

Tóm lược các chương ấy

(Mặc y ) tròn đu, cười vang, chống nạnh, và nghiêm trang nữa, vắt cơm, luôn cả tiếng sột sột, với giày dép là thứ bảy.

Bảy mươi lăm điu sekhiya đã đưc quy định bởi đức Gotama, vị Trời tối cao, bậc có danh vọng, nhằm mục đích học tập cho các đệ tử.

--ooOoo--

Bạch chư đi đức, các pháp sekhiyā đã đưc đọc tụng xong. Trong các điều ấy, tôi hỏi các đi đức rằng: Chắc hẳn các vị được thanh tịnh trong vấn đ này? Đến lần thứ nhì, tôi hỏi rằng: Chắc hẳn các vị được thanh tịnh trong vấn đ này? Đến lần thứ ba, tôi hỏi rằng: Chắc hẳn các vị được thanh tịnh trong vấn đ này? Các đi đc được thanh tịnh nên mới im lặng. Tôi ghi nhận sự việc này là như vậy.”

Các điều Sekhiya.

--ooOoo--

[1] Sách The Buddhist Monastic Code cho biết khoảng cách của 500 cây cung độ chừng 1 km.

[2] Năm hng ngưi đng đạo là tỳ khưu, t khưu ni, cô ni tu tập sự, sa di, và sa di ni.

[3] Sekhiya: (vị lai phân từ thụ động, ngữ căn √sikkh): cn được học tập, nên được rèn luyện.

[4] Động từ nivāseti áp dụng cho antaravāsaka (y nội) nên được dịch là “quấn y (nội).”

[5] Động từ pārupati áp dụng cho uttarāsaga (thưng y, y vai trái) nên được dịch là “trùm y (vai trái).”

[6] Nghĩa là nhìn phía trước ở mặt đất khoảng cách 4 hattha, khoảng 2 mét (VinA. iv, 891).

[7] Appasaddo: dịch sát nghĩa là “ít tiếng động, tiếng động nhỏ.” Chú Giải cho ví dụ về tiếng động nhỏ như sau: “Trong căn nhà dài 6 mét có ba v trưởng lão ngồi, một vị ngồi đầu này, một vị ngồi giữa, một vị ngồi đàng cui (như vậy vị ngồi giữa cách đều hai vị kia một khoảng cách là 3 mét). Khi vị thứ nhất nói nhỏ nhẹ thì vị ngồi ở giữa nghe và xác đnh được nội dung, còn vị kia ngồi cách 6 mét nghe tiếng nói nhưng không xác đnh được nội dung. Cho đến như vậy là tiếng động nhỏ. Trái lại, nếu vị trưởng lão thứ ba xác đnh được nội dung thì gọi là tiếng động lớn” (VinA. iv, 891).

[8] sakkaccan ti satiṃ upaṭṭhapetvā: nghiêm trang là sau khi thiết lập niệm (VinA. iv, 891).

[9] Hợp từ piṇḍukkhepakaṃ được dịch sát nghĩa là “sự thảy lên cục (cơm).” Như vậy theo sự xác định ở phần không phạm tội thì vật thực cứng và các thứ trái cây được phép thảy vào miệng! Ngài Buddhaghosa giải thích rằng: “piṇḍukkhepakan ti piṇḍaṃ ukkhipitvā ukkhipitvā” (VinA. iv, 893), chúng tôi hiểu sự lập lại của bất biến động từ ukkhipitvā là “đưa lên ri đưa lên” nên đã ghi lại lời dịch Việt là: “thọ thực theo lối đưa thc ăn (vào miệng) một cách liên tục.”

[10] Hợp từ kabaḷāvacchedaka được dịch sát nghĩa là “sự cắn vắt cơm làm hai.” Cũng như điu trên, khi xem đến phần không phạm tội với các vật thực cứng, các thứ trái cây, các món ăn đặc biệt, chúng tôi hiểu lời giải thích “kabaḷāvacchedakan ti kabaḷaṃ avacchinditvā avacchindivā” của ngài Buddhaghosa là “cắn đi cắn lại vắt cơm,” “cắn vắt cơm từng chút một,” nói theo cách nôm na là “ăn theo lối nhâm nhi.”

[11] Từ nillehakaṃ nghĩa là sự liếm, vét trong ba cụm từ “hattha-nillehakaṃ, patta-nillehakaṃ, oṭṭha-nillehakaṃ” liên quan đến tay, bình bát, và môi. Sở dĩ chúng tôi không dịch là “liếm bình bát” vì điều ấy không thể thực hiện được nên ghi là “nạo vét.” Nếu vị tỳ khưu thọ thực trong đĩa thì từ “liếm” có thể áp dụng (ND).

[12] Xem phần giảng giải chi tiết ở Cullavagga - Tiểu Phẩm, TTPV tập 06, chương IV.



Phiên bản thư viện demo v4.5 [Tipiṭaka Tiếng Việt] Theravada