Lúc bấy giờ, đức Phật Thế Tôn ngự tại thành Sāvatthī, Jetavana, tu viện của ông Anāthapiṇḍika. Vào lúc bấy giờ, ở thành Sāvatthī có bữa trai phạn có dâng y đến hội chúng của phường hội nọ đã được chuẩn bị (thông báo rằng): “Sau khi mời thọ thực, chúng tôi sẽ dâng y.” Khi ấy, các tỳ khưu nhóm Lục sư đã đi đến gặp phường hội ấy, sau khi đến đã nói với phường hội ấy điều này: - “Này các đạo hữu, hãy dâng các y này cho các vị tỳ khưu này.” - “Thưa các ngài, chúng tôi sẽ không dâng. Bữa trai phạn có dâng y đến hội chúng hàng năm của chúng tôi đã được thông báo.” - “Này các đạo hữu, hội chúng có nhiều thí chủ, hội chúng có nhiều cơ hội. Các vị này sống ở đây nương nhờ vào quý vị, trông ngóng nơi quý vị. Nếu quý vị sẽ không bố thí đến các vị này, giờ còn ai sẽ bố thí cho các vị này? Này các đạo hữu, hãy dâng các y này cho các vị tỳ khưu này.”
Khi ấy, trong lúc bị các tỳ khưu nhóm Lục Sư ép buộc phường hội ấy đã dâng y được chuẩn bị như thế đến các tỳ khưu nhóm Lục Sư rồi dâng vật thực đến hội chúng. Các vị tỳ khưu biết được bữa trai phạn có dâng y đến hội chúng đã được chuẩn bị mà không biết rằng: “(Y) đã được dâng đến các tỳ khưu nhóm Lục Sư,” các vị ấy đã nói như vầy: - “Này các đạo hữu, hãy cống hiến y đến hội chúng.” - “Thưa các ngài, không có y như đã chuẩn bị; các ngài đại đức nhóm Lục Sư đã thuyết phục dâng cho các ngài đại đức nhóm Lục Sư.”
Các tỳ khưu ít ham muốn, ―(như trên)― các vị ấy phàn nàn, phê phán, chê bai rằng: - “Vì sao các tỳ khưu nhóm Lục Sư trong khi biết lợi lộc đã được khẳng định là dành riêng cho hội chúng lại thuyết phục dâng cho cá nhân?” ―(như trên)― “Này các tỳ khưu, nghe nói các ngươi trong khi biết lợi lộc đã được khẳng định là dành riêng cho hội chúng vẫn thuyết phục dâng cho cá nhân, có đúng không vậy?” - “Bạch Thế Tôn, đúng vậy.” Đức Phật Thế Tôn đã khiển trách rằng: ―(như trên)― Này những kẻ rồ dại, vì sao các ngươi trong khi biết lợi lộc đã được khẳng định là dành riêng cho hội chúng lại thuyết phục dâng cho cá nhân vậy? Này những kẻ rồ dại, sự việc này không đem lại niềm tin cho những kẻ chưa có đức tin, ―(như trên)― Và này các tỳ khưu, các ngươi nên phổ biến điều học này như vầy:
“Vị tỳ khưu nào trong khi biết lợi lộc đã được khẳng định là dành riêng cho hội chúng vẫn thuyết phục dâng cho cá nhân thì phạm tội pācittiya.”
Vị nào: là bất cứ vị nào ―(như trên)―
Tỳ khưu: ―(như trên)― Vị này là ‘vị tỳ khưu’ được đề cập trong ý nghĩa này.
Biết nghĩa là tự mình biết, hoặc là những người khác nói cho vị ấy, hoặc là vị kia nói.
Dành riêng cho hội chúng nghĩa là đã được dâng đến, đã được giao hẳn cho hội chúng.
Lợi lộc nghĩa là các vật dụng như là y phục, vật thực, chỗ trú ngụ, và dược phẩm trị bệnh, ngay cả cục bột tắm, gỗ chà răng, nắm chỉ rời.
Đã được khẳng định nghĩa là lời nói đã được phát ra rằng: ‘Chúng tôi sẽ dâng, chúng tôi sẽ làm.’ Vị thuyết phục dâng vật ấy cho cá nhân thì phạm tội pācittiya. Khi đã được khẳng định, nhận biết là đã được khẳng định, vị thuyết phục dâng cho cá nhân thì phạm tội pācittiya. Khi đã được khẳng định, có sự hoài nghi, vị thuyết phục dâng cho cá nhân thì phạm tội dukkaṭa. Khi đã được khẳng định, (lầm) tưởng là chưa được khẳng định, vị thuyết phục dâng cho cá nhân thì vô tội.
Khi đã được khẳng định là dành riêng cho hội chúng, vị thuyết phục dâng đến hội chúng khác hoặc bảo tháp thì phạm tội dukkaṭa. Khi đã được khẳng định là dâng đến bảo tháp, vị thuyết phục dâng đến bảo tháp khác, hoặc hội chúng, hoặc cá nhân thì phạm tội dukkaṭa. Khi đã được khẳng định là dâng cho cá nhân, vị thuyết phục dâng cho cá nhân khác, hoặc hội chúng, hoặc bảo tháp thì phạm tội dukkaṭa.
Khi chưa được khẳng định, (lầm) tưởng là đã được khẳng định, phạm tội dukkaṭa. Khi chưa được khẳng định, có sự hoài nghi, phạm tội dukkaṭa. Khi chưa được khẳng định, nhận biết là chưa được khẳng định thì vô tội.
Trong khi được hỏi rằng: ‘Chúng tôi dâng nơi nào?’ vị nói rằng: ‘Nơi nào mà pháp bố thí của quý vị có thể đạt được sự hữu dụng, hoặc có thể được làm vật sửa chữa, hoặc có thể tồn tại lâu dài, hoặc nơi nào tâm của quý vị được hoan hỷ thì hãy dâng nơi đó,’ vị bị điên, vị vi phạm đầu tiên thì vô tội.”
Điều học về việc thuyết phục dâng là thứ mười hai.
Phẩm (Nói) Theo Pháp là thứ tám.
--ooOoo--
Tóm lược phẩm này
Theo Pháp, và sự chê bai, sự giả vờ ngu dốt, cú đánh, việc giá tay dọa đánh, không có nguyên cớ, cố ý, và sự nghe lén, việc ngăn cản, và sự tùy thuận, vị Dabba, và việc thuyết phục dâng.
--ooOoo--
[1] Được ghi nghĩa theo Chú Giải, “pahāradānākāraṃ dassetvā ...” (VinA. iv, 878). Dịch sát từ thì hành động này là ‘giá tay để tát tai’ (tala: lòng bàn tay, sattika: cây thương, con dao nhỏ).
[2] Một số vật dụng trên được đề cập ở Cullavagga 2 - Tiểu Phẩm 2, TTPV tập 07: khóa thắt lưng (vīṭha, tr. 93), hộp đựng thuốc cao (añjanī, tr. 91), que bôi thuốc cao (añjanisalākā, tr. 91), đồ gạt nước (udakapuñchanī, tr. 55).
[3] Sugataṅgulena: theo ngón tay của đức Thiện Thệ. Theo từ điển của Childers, aṅgula là bề rộng của ngón tay, tương dương 1 inch =2,54 cm; vậy 8 aṅgula = 2,54 x 8 = 20,32 cm. Tài liệu The Buddhist Monsatic Code cho biết chiều dài của 8 aṅgula vào khoảng 16,6 cm; đó là nói về chân giường (pādakaṃ). Tuy nhiên, do câu sau: “ngoại trừ phần khung giường ở bên dưới” nên chân giường được tính từ dưới đất lên phần bên dưới mối nối của thanh ngang và chân giường, hay nói cách khác 8 aṅgulachính là khoảng hở giữa mặt đất và thanh ngang của khung giường. Hiểu theo cách này thì chỗ nằm cách mặt đất bao nhiêu cũng không được xác định rõ, có thể là 40 cm hoặc 50 cm tùy theo bề rộng của thanh ngang (độ cao như vậy xét ra cũng hợp lý). Nếu tính ngón tay của đức Thiện Thệ có chiều dài gấp ba lần ngón tay của người bình thường thì giường nằm có vẻ hơi cao (tối thiểu là 70 cm nếu tính thanh ngang của giường có bề rộng là 20 cm).
[4] Gang tay của đức Thiện Thệ (sugatavidatthi): Với những kích thước của tấm lót ngồi, y đắp ghẻ, và y tắm mưa, độ dài gang tay của đức Thiện Thệ nên lấy số đo là 25 cm, tức là độ dài gang tay của người nam bậc trung thay vì gấp ba lần (xem thêm điều saṅghādisesa thứ sau về làm cốc liêu). Như thế, kích thước các cạnh của tấm lót ngồi căn bản không đường viền sẽ là 50 cm x 37,5 cm, và đức Phật cho phép thêm vào đường viền 25 cm. Chúng tôi nghĩ là đường viền sẽ bao bọc cả bốn cạnh; tuy nhiên khi đọc lời trình bày về tấm lót ngồi có kèm theo hình vẽ của ngài Mahāsamaṇa Chao trong tài liệu Vinayamukha thì vấn đề xem ra phức tạp hơn nhiều, quý vị nên tìm đọc để suy nghiệm.
Phiên bản thư viện demo v4.5 [Tipiṭaka Tiếng Việt] Theravada