Lúc bấy giờ, đức Phật Thế Tôn ngự tại thành Sāvatthī, Jetavana, tu viện của ông Anāthapiṇḍika. Vào lúc bấy giờ, có vị tỳ khưu n trong lúc đi đến thành Sāvatthī ở trong xứ sở Kosala đã đi ngang qua cổng làng nọ. Có ngưi đàn bà nọ sau khi gây gỗ với chồng đã đi ra khỏi làng, sau khi nhìn thấy vị tỳ khưu y đã nói điu này: - “Thưa ngài, ngài đi đức sẽ đi đâu?” - “Này chị gái, tôi sẽ đi thành Sāvatthī.” - “Tôi sẽ cùng đi vi ngài đi đức.” - “Này chị gái, cô có thể đi.” Sau đó, chồng của ngưi đàn bà y đã đi ra khi làng và đã hỏi dân chúng rằng: - “Này quý vị, quý vị có nhìn thấy ngưi đàn bà hình dáng như vầy không?” - “Này ông, cô ấy đi với vị xuất gia rồi.” Sau đó, ngưi đàn ông y đã đuổi theo và nắm lấy vị tỳ khưu y, đã đánh đập, rồi thả ra. Khi ấy, vị tỳ khưu ấy trong lúc giận dỗi đã ngồi xuống ở gốc cây nọ. Khi ấy, ngưi đàn bà y đã nói với ngưi đàn ông y điều này: - “Này ông, vị tỳ khưu y đã không dụ dỗ tôi đi, mà chính tôi đi chung với vị tỳ khưu ấy. Vị tỳ khưu ấy không làm gì cả. Hãy đi đến và xin lỗi vị ấy.” Khi ấy, ngưi đàn ông y đã xin lỗi vị tỳ khưu ấy.

Sau đó, vị tỳ khưu y đã đi đến thành Sāvatthī và kể lại sự việc ấy cho các tỳ khưu. Các t khưu ít ham mun, ―(như trên)― các vị ấy phàn nàn, phê phán, chê bai rằng: - “Vì sao vị tỳ khưu lại hẹn trước rồi đi chung đường xa với người nữ?” ―(như trên)― “Này tỳ khưu, nghe nói ngươi hn trước rồi đi chung đường xa với người nữ, có đúng không vậy?” - “Bạch Thế Tôn, đúng vy.” Đức Phật Thế Tôn đã khiển trách rằng: ―(như trên)― “Này kẻ rồ dại, vì sao ngươi lại hẹn trước rồi đi chung đường xa với người nữ vậy? Này kẻ rồ dại, sự việc này không đem lại niềm tin cho những kẻ chưa có đc tin, ―(như trên)― Và này các tỳ khưu, các ngươi nên phổ biến điều học này như vầy:

“Vị tỳ khưu nào hn trước rồi đi chung đường xa với người nữ ngay cả từ làng này sang làng khác thì phạm tội pācittiya.”

Vị nào: là bất cứ vị nào ―(như trên)

Tỳ khưu: ―(như trên)― Vị này là ‘vị tỳ khưu’ đưc đề cập trong ý nghĩa này.

Người nữ nghĩa là nữ nhân loại, không phải nữ Dạ-xoa, không phải ma nữ, không phải loài thú cái, có trí suy xét, có khả năng nhận biết lời nói tốt và lời nói xấu, là (lời nói) thô tục và không thô tục.

Với: cùng chung.

(Sau khi) hẹn trước: Vị hẹn trước rằng: “Này chị gái, chúng ta hãy đi. Thưa ngài, chúng ta hãy đi. Thưa ngài, chúng ta hãy đi. Này chị gái, chúng ta hãy đi. Hôm nay hoặc hôm qua hoặc ngày mai chúng ta hãy đi” thì phạm tội dukkaṭa.

Ngay cả từ làng này sang làng khác: Ở ngôi làng trong khoảng cách đi được của con gà trống thì phạm tội pācittiya theo mỗi một khoảng giữa của các ngôi làng. Không phải trong làng, ở trong rừng, thì phạm tội pācittiya theo từng khoảng cách nửa do-tuần.

Người nữ, nhận biết là người nữ, vị hẹn trước rồi đi chung đường xa ngay cả từ làng này sang làng khác thì phạm tội pācittiya. Người nữ, có sự hoài nghi, vị hẹn trước rồi đi chung đường xa ngay cả từ làng này sang làng khác thì phạm tội pācittiya. Người nữ, (lầm) tưởng không phải là người nữ, vị hẹn trước rồi đi chung đường xa ngay cả từ làng này sang làng khác thì phạm tội pācittiya.

Vị tỳ khưu hẹn trước còn người nữ không hẹn trước thì phạm tội dukkaṭa. Vị tỳ khưu hn trước rồi đi chung đường xa với nữ Dạ-xoa, hoặc với ma nữ, hoặc với ngưi vô căn, hoặc với loài thú cái hình người ngay cả từ làng này sang làng khác thì phạm tội dukkaṭa.

Không phải là người nữ, (lầm) tưng là người nữ, phạm tội dukkaṭa. Không phải là người nữ, có sự hoài nghi, phạm tội dukkaṭa. Không phải là người nữ, nhận biết không phải là người nữ thì vô tội.

Sau khi không hẹn trước rồi đi, người nữ hẹn trước còn vị tỳ khưu không hẹn trước, vị đi ngoài giờ hẹn ước, trong những lúc có sự cố, vị bị điên, vị vi phạm đầu tiên thì vô tội.”

Điều học về việc hẹn trước là thứ bảy.

--ooOoo--



Phiên bản thư viện demo v4.5 [Tipiṭaka Tiếng Việt] Theravada