Lúc bấy giờ, đức Phật Thế Tôn ngự tại thành Sāvatthī, Jetavana, tu viện của ông Anāthapiṇḍika. Vào lúc bấy giờ, các tỳ khưu nhóm Mười Bảy Sư có các vật dụng không được cất giữ. Các tỳ khưu nhóm Lc Sư thu giấu bình bát và luôn cả y của các tỳ khưu nhóm Mười Bảy Sư. Các t khưu nhóm Mười Bảy Sư đã nói với các tỳ khưu nhóm Lc Sư điều này: - “Này các đi đức, hãy cho lại chúng tôi bình bát và luôn cả y nữa.” Các tỳ khưu nhóm Lc Sư cười. Các vị ấy khóc lóc. Các tỳ khưu đã nói như vy: - “Này các đi đức, vì sao các vị khóc lóc?” - “Thưa các đi đức, các tỳ khưu nhóm Lc Sư này thu giấu bình bát và luôn cả y của chúng tôi.”

Các tỳ khưu ít ham mun, ―(như trên)― các vị ấy phàn nàn, phê phán, chê bai rằng: - “Vì sao các tỳ khưu nhóm Lc Sư lại thu giấu bình bát và luôn cả y của các tỳ khưu?” ―(như trên)― “Này các tỳ khưu, nghe nói các ngươi thu giấu bình bát và luôn cả y của các tỳ khưu, có đúng không vậy?” - “Bạch Thế Tôn, đúng vy.” Đức Phật Thế Tôn đã khiển trách rằng: ―(như trên)― Này những kẻ rồ dại, vì sao các ngươi lại thu giấu bình bát và luôn cả y của các tỳ khưu vậy? Này những kẻ rồ dại, sự việc này không đem lại niềm tin cho những kẻ chưa có đc tin, ―(như trên)― Và này các tỳ khưu, các ngươi nên phổ biến điều học này như vầy:

Vị tỳ khưu nào thu giấu hoặc bảo thu giấu bình bát hoặc y hoặc tấm lót ngồi hoặc ống đựng kim hoặc dây thắt lưng của vị tỳ khưu cho dầu chỉ muốn cười giỡn thì phạm tội pācittiya.”

Vị nào: là bất cứ vị nào ―(như trên)

Tỳ khưu: ―(như trên)― Vị này là ‘vị tỳ khưu’ đưc đề cập trong ý nghĩa này.

Của vị tỳ khưu: là của vị tỳ khưu khác.

Bình bát nghĩa là có hai loại bình bát: bình bát sắt và bình bát đất.

Y nghĩa là bất cứ loại y nào thuộc về sáu loại y (có kích thước) tối thiểu cần phải chú nguyện để dùng chung.

Tấm lót ngồi nghĩa là vật có đưng biên đưc nói đến.

ng đựng kim nghĩa là có kim hoặc không có kim.

Dây thắt lưng nghĩa là có hai loại dây thắt lưng: loại tết bằng vải sợi, loại tết kiểu đuôi heo.

Thu giấu: vị tự mình thu giấu thì phạm tội pācittiya.

Bảo thu giấu: vị ra lệnh vị khác thì phạm tội pācittiya. Khi được ra lệnh một lần, dầu (vị kia) thu giấu nhiều lần (vị ra lệnh) phạm (chỉ một) tội pācittiya.

Cho dầu chỉ muốn cười giỡn: là có ý đnh đùa nghịch.

Vị đã tu lên bậc trên, nhận biết là đã tu lên bậc trên, vị thu giấu hoặc bảo thu giấu bình bát hoặc y hoặc tấm lót ngồi hoặc ống đựng kim hoặc dây thắt lưng cho dầu chỉ muốn cười giỡn thì phạm tội pācittiya. Vị đã tu lên bậc trên, có sự hoài nghi, ―(như trên)― V đã tu lên bậc trên, (lầm) tưng là chưa tu lên bậc trên, vị thu giấu hoặc bảo thu giấu bình bát hoặc y hoặc tấm lót ngồi hoặc ống đựng kim hoặc dây thắt lưng cho dầu chỉ muốn cười giỡn thì phạm tội pācittiya.

Vị thu giấu hoặc bảo thu giấu vật dụng khác cho dầu chỉ muốn cười giỡn thì phạm tội dukkaṭa. Vị thu giấu hoặc bảo thu giấu bình bát hoặc y hoặc vật dụng khác của ngưi chưa tu lên bậc trên cho dầu chỉ muốn cười giỡn thì phạm tội dukkaṭa.

Ngưi chưa tu lên bậc trên, (lầm) tưng là đã tu lên bậc trên, phạm tội dukkaṭa. Ngưi chưa tu lên bậc trên, có sự hoài nghi, phạm tội dukkaṭa. Ngưi chưa tu lên bậc trên, nhận biết là chưa tu lên bậc trên, phạm tội dukkaṭa.

Không có ý đnh đùa giỡn, vị thu dọn vật đưc để lộn xộn, vị thu dọn (nghĩ rằng): ‘Ta sẽ cho lại sau khi thuyết giảng bài Pháp,’ vị bị điên, vị vi phạm đầu tiên thì vô tội.”

Điều học về việc thu giấu y là thứ mười.

Phẩm Uống Rượu là thứ sáu.

--ooOoo--

Tóm lược phẩm này

ợu, ngón tay, việc chơi giỡn (ở trong nước), sự không tôn trọng, sự làm cho kinh sợ, ngọn lửa, việc tắm, việc hoại sắc, đích thân (chú nguyện), và việc thu giấu.

--ooOoo--

[1] Tapodā (nghĩa là nước nóng) vừa là tên của một cái hồ vừa là tên của một dòng sông. Nước ở hồ thì mát nhưng khi ra đến dòng sông thì nóng (Pārājikapāḷi - Phân Tích Giới Tỳ Khưu I, TTPV tập 01, điều Pārājika thứ 4, trang 253).

[2] Tương đương 5 miles, hoặc 8 km (theo The Buddhist Monastic Code).

[3] Xem chi tiết ở Mahāvagga 2 - Đại Phẩm 2, TTPV tập 04, chương V, trang 512-515.

[4] Nghĩa là vị kia chưa nói với vị chủ nhân của y rằng: “Ngài hãy sử dụng hoặc ngài hãy phân phát hoặc ngài hãy tiến hành như là có duyên cớ” (VinA. iv, 864).

[5] Vì là trường hợp đu tiên nên nhóm mười bảy thiếu niên ấy vẫn là tỳ khưu du chưa đ hai mươi tuổi. Các vị này thường khóc lóc khi bị các tỳ khưu nhóm Lc Sư hiếp đáp hoặc vẫn còn những hành động của trẻ nít như đi xem lễ hội (điều pācittiya 37), chơi giỡn ở trong nưc (điều pācittiya 53), đ đ đạc bừa bãi (điều pācittiya 60), v.v... (ND).



Phiên bản thư viện demo v4.5 [Tipiṭaka Tiếng Việt] Theravada