Lúc bấy giờ, đức Phật Thế Tôn ngự tại thành Sāvatthī, Jetavana, tu viện của ông Anāthapiṇḍika. Vào lúc bấy giờ, đi đức Upananda con trai dòng Sakya sau khi đi đến nhà của người bạn đã cùng với vợ của người ấy ngồi xuống ở chỗ ngồi kín đáo, được che khuất. Khi ấy, ngưi đàn ông ấy phàn nàn, phê phán, chê bai rằng: - “Vì sao ngài đi đức Upananda lại cùng với vợ tôi ngồi xuống ở chỗ ngồi kín đáo, được che khuất?”

Các tỳ khưu đã nghe đưc ngưi đàn ông ấy phàn nàn, phê phán, chê bai. Các tỳ khưu ít ham mun, ―(như trên)― các vị ấy phàn nàn, phê phán, chê bai rằng: - “Vì sao đi đức Upananda con trai dòng Sakya lại cùng với người nữ ngồi xuống ở chỗ ngồi kín đáo, được che khuất?” ―(như trên)― “Này Upananda, nghe nói ngươi cùng vi người nữ ngồi xuống ở chỗ ngồi kín đáo, được che khuất, có đúng không vậy?” - “Bạch Thế Tôn, đúng vy.” Đức Phật Thế Tôn đã khiển trách rằng: ―(như trên)― Này kẻ rồ dại, vì sao ngươi lại cùng với người nữ ngồi xuống ở chỗ ngồi kín đáo, được che khuất vậy? Này kẻ rồ dại, sự việc này không đem lại niềm tin cho những kẻ chưa có đc tin, ―(như trên)― Và này các tỳ khưu, các ngươi nên phổ biến điều học này như vầy:

Vị tỳ khưu nào cùng vi người nữ ngồi xuống ở chỗ ngồi kín đáo, được che khuất thì phạm tội pācittiya.”

Vị nào: là bất cứ vị nào ―(như trên)

Tỳ khưu: ―(như trên)― Vị này là ‘vị tỳ khưu’ đưc đề cập trong ý nghĩa này.

Người nữ: nghĩa là nữ nhân loại, không phải nữ Dạ-xoa, không phải ma nữ, không phải loài thú cái, ngay cả đứa bé gái mới sanh ngày hôm ấy cho đến bà lão.

Với: cùng chung.

Kín đáo: nghĩa là kín đáo đối với mắt, kín đáo đối với tai. Kín đáo đối với mắt: nghĩa là không thể nhìn thấy trong khi bị che mắt lại, trong khi nhướng mày, trong khi ngẩng đầu lên. Kín đáo đối với tai: nghĩa là không thể nghe lời nói (với giọng) bình thường.

Được che khuất: nghĩa là chỗ ngồi được che khuất bởi bức tường, bởi cánh cửa, bởi tấm màn, bởi khung chắn, bởi cội cây, bởi cột nhà, bởi nhà kho, hoặc bởi bất cứ vật gì.

Ngồi: Khi người nữ đang ngồi, vị tỳ khưu ngồi gần hoặc nằm gần thì phạm tội pācittiya. Trong lúc vị tỳ khưu đang ngi, người nữ ngồi gần hoặc nằm gần thì phạm tội pācittiya. Hoặc cả hai đang ngồi, hoặc cả hai đang nằm thì phạm tội pācittiya.

Là người nữ, nhận biết là người nữ, vị ngồi xuống ở chỗ ngồi kín đáo, được che khuất thì phạm tội pācittiya. Là người nữ, có sự nghi ngờ, vị ngồi xuống ở chỗ ngồi kín đáo, được che khuất thì phạm tội pācittiya. Là người nữ, (lầm) tưởng không phải là người nữ, vị ngồi xuống ở chỗ ngồi kín đáo, được che khuất thì phạm tội pācittiya.

Vị cùng với nữ Dạ-xoa, hoặc ma nữ, hoặc ngưi vô căn, hoặc loài thú cái dạng người ngồi xuống ở chỗ ngồi kín đáo, được che khuất thì phạm tội dukkaṭa.

Không phải là người nữ, (lầm) tưng là người nữ, phạm tội dukkaṭa. Không phải là người nữ, có sự hoài nghi, phạm tội dukkaṭa. Không phải là người nữ, nhận biết không phải là người nữ thì vô tội.

Có bất cứ người nam nào có trí suy xét là người thứ nhì, vị đứng không ngồi, không mong mỏi chỗ kín đáo, đang bận tâm chuyện khác rồi ngồi xuống, vị bị điên, vị vi phạm đầu tiên thì vô tội.”

Điều học thứ nhất về ngồi nơi kín đáo là th tư.

--ooOoo--



Phiên bản thư viện demo v4.5 [Tipiṭaka Tiếng Việt] Theravada