Lúc bấy giờ, đức Phật Thế Tôn ngự tại thành Āḷavī, nơi tháp thờ Aggāḷava. Vào lúc bấy giờ, các cư sĩ thường đi đến tu viện để nghe Pháp. Khi Pháp đã được thuyết giảng, các tỳ khưu trưởng lão đi về trú xá của các vị. Các tỳ khưu mới tu cùng với các cư sĩ nằm ngủ ngay tại nơi ấy ở phòng phục vụ; các vị bị thất niệm, không tỉnh giác, lõa thể, mớ ngủ, ngáy ngủ. Các cư sĩ phàn nàn, phê phán, chê bai rằng: - “Tại sao các ngài đại đức lại nằm ngủ bị thất niệm, không tỉnh giác, lõa thể, mớ ngủ, ngáy ngủ?” Các tỳ khưu đã nghe được các cư sĩ ấy phàn nàn, phê phán, chê bai. Các tỳ khưu ít ham muốn, ―(như trên)― các vị ấy phàn nàn, phê phán, chê bai rằng: - “Vì sao các tỳ khưu lại nằm chung chỗ ngụ với người chưa tu lên bậc trên?”
Sau đó, các vị tỳ khưu ấy đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn. ―(như trên)― “Này các tỳ khưu, nghe nói các ngươi nằm chung chỗ ngụ với người chưa tu lên bậc trên, có đúng không vậy?” - “Bạch Thế Tôn, đúng vậy.” Đức Phật Thế Tôn đã khiển trách rằng: ―(như trên)― Này các tỳ khưu, vì sao những kẻ rồ dại ấy lại nằm chung chỗ ngụ với người chưa tu lên bậc trên vậy? Này các tỳ khưu, sự việc này không đem lại niềm tin cho những kẻ chưa có đức tin, ―(như trên)― Và này các tỳ khưu, các ngươi nên phổ biến điều học này như vầy:
“Vị tỳ khưu nào nằm chung chỗ ngụ với người chưa tu lên bậc trên thì phạm tội pācittiya.”
Và điều học này đã được đức Thế Tôn quy định cho các tỳ khưu như thế.
Sau đó, khi đã ngự tại thành Āḷavī theo như ý thích, đức Thế Tôn đã ra đi du hành về phía thành Kosambī. Trong khi tuần tự du hành, Ngài đã ngự đến thành Kosambī. Tại nơi đó trong thành Kosambī, đức Thế Tôn ngự ở tu viện Badarikā. Các tỳ khưu đã nói với đại đức Rāhula điều này: - “Này đệ Rāhula, điều học đã được đức Thế Tôn quy định là: ‘Không được nằm chung chỗ ngụ với người chưa tu lên bậc trên.’ Này đệ Rāhula, hãy tìm chỗ ngủ.” Khi ấy, trong khi không có được chỗ ngủ, đại đức Rāhula đã nằm ngủ ở nhà tiêu. Sau đó vào canh cuối của đêm, đức Thế Tôn sau khi thức dậy đã đi đến nhà tiêu, sau khi đi đến đã tằng hắng. Đại đức Rāhula cũng đã tằng hắng lại. - “Ai đó vậy?” - “Bạch Thế Tôn, con là Rāhula.” - “Này Rāhula, sau con lại nằm ở đây?” Khi ấy, đại đức Rāhula đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn.
Sau đó, đức Thế Tôn nhân lý do ấy nhân sự kiện ấy đã nói Pháp thoại rồi bảo các tỳ khưu rằng: - “Này các tỳ khưu, ta cho phép nằm chung chỗ ngụ với người chưa tu lên bậc trên hai hoặc ba đêm. Và này các tỳ khưu, các ngươi nên phổ biến điều học này như vầy:
“Vị tỳ khưu nào nằm chung chỗ ngụ với người chưa tu lên bậc trên quá hai ba đêm thì phạm tội pācittiya.”
Vị nào: là bất cứ vị nào ―(như trên)―
Tỳ khưu: ―(như trên)― Vị này là ‘vị tỳ khưu’ được đề cập trong ý nghĩa này.
Người chưa tu lên bậc trên nghĩa là trừ ra tỳ khưu, (các người) còn lại gọi là người chưa tu lên bậc trên.
Quá hai ba đêm: là hơn hai hoặc ba đêm.
Với: là cùng chung.
Chỗ ngụ nghĩa là đã được lợp kín toàn bộ đã được che kín xung quanh toàn bộ, đã được lợp kín phần lớn đã được che kín xung quanh phần lớn.
Nằm chung chỗ ngụ: vào ngày thứ tư lúc mặt trời đã lặn, khi người chưa tu lên bậc trên đang nằm vị tỳ khưu nằm xuống thì phạm tội pācittiya. Khi vị tỳ khưu đang nằm, người chưa tu lên bậc trên nằm xuống thì phạm tội pācittiya. Hoặc cả hai nằm xuống thì phạm tội pācittiya. Sau khi đứng dậy rồi (cả hai) lại nằm xuống thì phạm tội pācittiya.
Người chưa tu lên bậc trên, nhận biết là chưa tu lên bậc trên, vị nằm chung chỗ ngụ quá hai ba đêm thì phạm tội pācittiya. Người chưa tu lên bậc trên, có sự hoài nghi, vị nằm chung chỗ ngụ quá hai ba đêm thì phạm tội pācittiya. Người chưa tu lên bậc trên, (lầm) tưởng là đã tu lên bậc trên, vị nằm chung chỗ ngụ quá hai ba đêm thì phạm tội pācittiya.
Trong chỗ lợp kín một nửa, che kín xung quanh một nửa thì phạm tội dukkaṭa. Vị đã tu lên bậc trên, (lầm) tưởng là chưa tu lên bậc trên, phạm tội dukkaṭa. Vị đã tu lên bậc trên, có sự hoài nghi, phạm tội dukkaṭa. Vị đã tu lên bậc trên, nhận biết là đã tu lên bậc trên thì vô tội.
Vị ngụ hai ba đêm, vị ngụ chưa đủ hai ba đêm, sau khi ngụ hai đêm vào đêm thứ ba đi ra ngoài trước rạng đông rồi lại trú ngụ tiếp, trong chỗ không được lợp kín toàn bộ, trong chỗ không được che kín xung quanh toàn bộ, trong chỗ không được lợp kín phần nhiều, trong chỗ không được che kín xung quanh phần nhiều, khi người chưa tu lên bậc trên đang nằm thì vị tỳ khưu ngồi, khi vị tỳ khưu đang nằm thì người chưa tu lên bậc trên ngồi, hoặc là cả hai đều ngồi, vị bị điên, vị vi phạm đầu tiên thì vô tội.”
Điều học thứ nhất về nằm chung chỗ ngụ là thứ năm.
Điều học thứ nhì về nằm chung chỗ ngụ
Lúc bấy giờ, đức Phật Thế Tôn ngự tại thành Sāvatthī, Jetavana, tu viện của ông Anāthapiṇḍika. Vào lúc bấy giờ, đại đức Anuruddha trong khi đang đi đến thành Sāvatthī trong xứ sở Kosala nhằm lúc chiều tối đã ghé lại ngôi làng nọ. Vào lúc bấy giờ, ở trong ngôi làng ấy có nhà nghỉ trọ của người đàn bà nọ đã được sắp đặt.[4] Khi ấy, đại đức Anuruddha đã đi đến gặp người đàn bà ấy, sau khi đến đã nói với người đàn bà ấy điều này: - “Này chị gái, nếu chị không phiền lòng chúng tôi có thể ngụ một đêm ở phước xá.” - “Thưa ngài, ngài có thể ngụ.” Những khách lữ hành khác cũng đã đi đến gặp người đàn bà ấy, sau khi đến đã nói với người đàn bà ấy điều này: - “Thưa bà, nếu bà không phiền lòng chúng tôi có thể trú một đêm ở phước xá.” - “Có ngài Sa-môn đã đến trước, nếu vị ấy cho phép thì các ông có thể trú lại.” Khi ấy, những khách lữ hành ấy đã đi đến gặp đại đức Anuruddha, sau khi đến đã nói với đại đức Anuruddha điều này: - “Thưa ngài, nếu ngài không phiền lòng chúng tôi có thể trú một đêm ở phước xá.” - “Này các đạo hữu, hãy trú lại.”
Khi ấy, người đàn bà ấy do sự nhìn thấy đại đức Anuruddha nên đã đem lòng say đắm. Sau đó, người đàn bà ấy đã đi đến gặp đại đức Anuruddha, sau khi đến đã nói với đại đức Anuruddha điều này: - “Thưa ngài, bị quấy rầy bởi những người này ngài sẽ ngụ không được an lạc. Thưa ngài, tốt thay tôi có thể sắp đặt cho ngài chiếc giường ở bên trong.” Đại đức Anuruddha đã nhận lời bằng thái độ im lặng. Sau đó, người đàn bà ấy đã sắp đặt chiếc giường của mình ở bên trong cho đại đức Anuruddha rồi đã khoác xiêm y và trang sức, xức hương thơm rồi đi đến gặp đại đức Anuruddha, sau khi đến đã nói với đại đức Anuruddha điều này: - “Thưa ngài, ngài là đẹp dáng, đáng nhìn, khả ái, và thiếp là đẹp dáng, đáng nhìn, khả ái. Thưa ngài, tốt thay thiếp có thể là vợ của ngài.” Khi được nói như thế, đại đức Anuruddha đã im lặng. Đến lần thứ nhì, ―(như trên)― Đến lần thứ ba, người đàn bà ấy đã nói với đại đức Anuruddha điều này: - “Thưa ngài, ngài là đẹp dáng, đáng nhìn, khả ái, và thiếp là đẹp dáng, đáng nhìn, khả ái. Thưa ngài, tốt thay ngài hãy chấp nhận thiếp đây và tất cả tài sản.” Đến lần thứ ba, đại đức Anuruddha đã im lặng.
Sau đó, người đàn bà ấy đã cởi ra tấm áo choàng và đi qua đi lại phía trước đại đức Anuruddha, rồi đứng lại, rồi ngồi xuống, rồi nằm xuống. Khi ấy, đại đức Anuruddha đã thu thúc các giác quan, cũng không nhìn người đàn bà ấy và cũng không nói. Khi ấy, người đàn bà ấy (nghĩ rằng): “Ngài thật là kỳ diệu! Ngài thật là phi thường! Nhiều người bỏ ra cả trăm cả ngàn vì ta, thế mà khi được đích thân ta van xin vị Sa-môn này lại không chịu chấp nhận ta đây và tất cả tài sản,” rồi đã quấn lại tấm áo choàng, đê đầu ở hai chân của đại đức Anuruddha và đã nói với đại đức Anuruddha điều này: - “Thưa ngài, tội lỗi đã chiếm ngự lấy con khiến con như là ngu khờ, như là mê muội, như là không có đạo đức nên con đã hành động như thế. Thưa ngài, đối với con đây xin ngài đại đức ghi nhận tội lỗi là tội lỗi hầu để ngăn ngừa trong tương lai.” - “Này chị gái, đúng như vậy, tội lỗi đã chiếm ngự lấy cô khiến cô như là ngu khờ, như là mê muội, như là không có đạo đức nên cô đã hành động như thế. Và này chị gái, chính từ việc đó cô đã thấy được tội lỗi là tội lỗi và sửa đổi đúng theo Pháp, nay chúng tôi ghi nhận điều ấy cho cô. Này chị gái, chính điều này là sự tiến bộ trong giới luật của bậc Thánh: ‘Người nào sau khi thấy được tội lỗi là tội lỗi và sửa đổi đúng theo Pháp sẽ có được sự ngăn ngừa trong tương lai.’”
Sau đó, khi trải qua đêm ấy người đàn bà ấy đã tự tay làm hài lòng và toại ý đại đức Anuruddha với thức ăn thượng hạng loại cứng loại mềm. Đến khi đại đức Anuruddha đã thọ thực xong bàn tay đã rời khỏi bình bát, người đàn bà ấy đã ngồi xuống ở một bên. Đại đức Anuruddha đã chỉ dạy, thức tỉnh, khuyến khích, và tạo niềm phấn khởi cho người đàn bà ấy đang ngồi một bên bằng bài Pháp thoại. Sau đó, khi đã được đại đức Anuruddha chỉ dạy, thức tỉnh, khuyến khích, và tạo niềm phấn khởi bằng bài Pháp thoại, người đàn bà ấy đã nói với đại đức Anuruddha điều này: - “Thưa ngài, thật là tuyệt vời! Thưa ngài, thật là tuyệt vời! Thưa ngài, giống như người có thể lật ngửa vật đã được úp lại, mở ra vật đã bị che kín, chỉ đường cho kẻ lạc lối, đem lại cây đèn dầu nơi bóng tối (nghĩ rằng): ‘Những người có mắt sẽ nhìn thấy được các hình dáng;’ tương tợ như thế Pháp đã được ngài đại đức Anuruddha giảng rõ bằng nhiều phương tiện. Thưa ngài, con đây xin quy y đức Thế Tôn ấy, Giáo Pháp, và Hội chúng tỳ khưu. Xin ngài đại đức chấp nhận con là nữ cư sĩ đã đi đến nương nhờ kể từ hôm nay cho đến trọn đời.”
Sau đó, đại đức Anuruddha đã đi đến thành Sāvatthī và kể lại sự việc ấy cho các tỳ khưu. Các tỳ khưu ít ham muốn, ―(như trên)― các vị ấy phàn nàn, phê phán, chê bai rằng: - “Vì sao đại đức Anuruddha lại nằm chung chỗ ngụ với người nữ?” Sau đó, các vị tỳ khưu ấy đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn. ―(như trên)―
- “Này Anuruddha, nghe nói ngươi nằm chung chỗ ngụ với người nữ, có đúng không vậy?” - “Bạch Thế Tôn, đúng vậy.” Đức Phật Thế Tôn đã khiển trách rằng: ―(như trên)― Này Anuruddha, vì sao ngươi lại nằm chung chỗ ngụ với người nữ vậy? Này Anuruddha, sự việc này không đem lại niềm tin cho những kẻ chưa có đức tin, ―(như trên)― Và này các tỳ khưu, các ngươi nên phổ biến điều học này như vầy:
“Vị tỳ khưu nào nằm chung chỗ ngụ với người nữ thì phạm tội pācittiya.”
Vị nào: là bất cứ vị nào ―(như trên)―
Tỳ khưu: ―(như trên)― Vị này là ‘vị tỳ khưu’ được đề cập trong ý nghĩa này.
Người nữ: nghĩa là nữ nhân loại, không phải nữ Dạ-xoa, không phải ma nữ, không phải loài thú cái, ngay cả đứa bé gái mới sanh ngày hôm ấy cho đến bà lão.
Với: là cùng chung.
Chỗ ngụ nghĩa là đã được lợp kín toàn bộ đã được che kín xung quanh toàn bộ, đã được lợp kín phần lớn đã được che kín xung quanh phần lớn.
Nằm chung chỗ ngụ: là lúc mặt trời đã lặn, khi người nữ đang nằm vị tỳ khưu nằm xuống thì phạm tội pācittiya. Khi vị tỳ khưu đang nằm, người nữ nằm xuống thì phạm tội pācittiya. Hoặc cả hai nằm xuống thì phạm tội pācittiya. Sau khi đứng dậy rồi (cả hai) lại nằm xuống thì phạm tội pācittiya.
Người nữ, nhận biết là người nữ, vị nằm chung chỗ ngụ thì phạm tội pācittiya. Người nữ, có sự hoài nghi, vị nằm chung chỗ ngụ thì phạm tội pācittiya. Người nữ, (lầm) tưởng không phải là người nữ, vị nằm chung chỗ ngụ thì phạm tội pācittiya.
Trong chỗ lợp kín một nửa, che kín xung quanh một nửa, phạm tội dukkaṭa. Vị nằm chung chỗ ngụ với nữ Dạ-xoa, hoặc với ma nữ, hoặc với người vô căn, hoặc với thú cái thì phạm tội dukkaṭa. Không phải là người nữ, (lầm) tưởng là người nữ, phạm tội dukkaṭa. Không phải là người nữ, có sự hoài nghi, phạm tội dukkaṭa. Không phải là người nữ, nhận biết không phải là người nữ thì vô tội.
Trong chỗ không được lợp kín toàn bộ, trong chỗ không được che kín xung quanh toàn bộ, trong chỗ không được lợp kín phần nhiều, trong chỗ không được che kín xung quanh phần nhiều, trong khi người nữ đang nằm thì vị tỳ khưu ngồi, trong khi vị tỳ khưu đang nằm thì người nữ ngồi, hoặc cả hai đều ngồi, vị bị điên, vị vi phạm đầu tiên thì vô tội.”
Điều học thứ nhì về nằm chung chỗ ngụ là thứ sáu.
Phiên bản thư viện demo v4.5 [Tipiṭaka Tiếng Việt] Theravada