Lúc bấy giờ, đức Phật Thế Tôn ngự tại thành Sāvatthī, Jetavana, tu viện của ông Anāthapiṇḍika. Vào lúc bấy giờ, đại đức Upananda con trai dòng Sakya là rành rẽ về việc may y. Vị ấy đã làm y hai lớp được nhuộm khéo léo và được sửa soạn khéo léo từ các loại vải cũ, sau khi làm xong đã khoác vào. Khi ấy, có vị du sĩ ngoại đạo nọ mặc tấm choàng trị giá cao đã đi đến gặp đại đức Upananda con trai dòng Sakya, sau khi đến đã nói với đại đức Upananda con trai dòng Sakya điều này: - “Này đại đức, y hai lớp này của ngài đẹp thật. Hãy đổi cho tôi với tấm choàng này.” - “Này đạo hữu, hãy biết lấy.” - “Này đại đức, được rồi. Tôi biết mà.” - “Này đạo hữu, tốt thôi,” rồi đã trao đổi. Sau đó, vị du sĩ ngoại đạo ấy đã khoác lên y hai lớp ấy rồi đi đến tu viện của các du sĩ ngoại đạo. Các du sĩ ngoại đạo đã nói với vị du sĩ ngoại đạo ấy điều này: - “Này huynh đệ, y hai lớp này của ngươi đẹp thật. Ngươi nhận được từ đâu vậy?” - “Này các huynh đệ, đã được trao đổi bằng tấm choàng kia của tôi.” - “Này huynh đệ, y hai lớp này của ngươi sẽ được bao nhiêu ngày? Chính tấm choàng kia của ngươi mới giá trị.”
Khi ấy, vị du sĩ ngoại đạo ấy (nghĩ rằng): ‘Các du sĩ ngoại đạo đã nói sự thật. Y hai lớp này của ta sẽ được bao nhiêu ngày? Chính tấm choàng kia của ta mới giá trị’ rồi đã đi đến gặp đại đức Upananda con trai dòng Sakya, sau khi đến đã nói với đại đức Upananda con trai dòng Sakya điều này: - “Này đại đức, đây là y hai lớp của đại đức. Hãy cho lại tôi tấm choàng.” - “Này đạo hữu, không phải ta đã nói với đạo hữu rằng: ‘Này đạo hữu, hãy biết lấy.’ Ta sẽ không cho lại.”
Khi ấy, vị du sĩ ngoại đạo ấy phàn nàn, phê phán, chê bai rằng: - “Ngay cả người tại gia còn cho lại vật ấy đến người tại gia có sự luyến tiếc. Sao vị xuất gia lại không cho lại vị xuất gia?” Các tỳ khưu đã nghe được vị du sĩ ngoại đạo ấy phàn nàn, phê phán, chê bai. Các tỳ khưu nào ít ham muốn, các vị ấy phàn nàn, phê phán, chê bai rằng:
- “Vì sao đại đức Upananda con trai dòng Sakya lại tiến hành việc mua bán với du sĩ ngoại đạo?” Sau đó, các vị tỳ khưu ấy đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn. - “Này Upananda, nghe nói ngươi tiến hành việc mua bán với du sĩ ngoại đạo, có đúng không vậy?” - “Bạch Thế Tôn, đúng vậy.” Đức Phật Thế Tôn đã khiển trách rằng: - “Này kẻ rồ dại, vì sao ngươi lại tiến hành việc mua bán với du sĩ ngoại đạo vậy? Này kẻ rồ dại, sự việc này không đem lại niềm tin cho những kẻ chưa có đức tin, ―(như trên)― Và này các tỳ khưu, các ngươi nên phổ biến điều học này như vầy:
“Vị tỳ khưu nào tiến hành việc mua bán dưới nhiều hình thức thì (vật ấy) nên được xả bỏ và (vị ấy) phạm tội pācittiya.”
Vị nào: là bất cứ vị nào ―(như trên)―
Tỳ khưu ―(như trên)― Vị này là ‘vị tỳ khưu’ được đề cập trong ý nghĩa này.
Dưới nhiều hình thức nghĩa là các vật dụng như là y phục, vật thực, chỗ trú ngụ, thuốc men chữa bệnh, thậm chí cục bột tắm, gỗ chà răng, nắm chỉ rời.
Tiến hành việc mua bán: (Nói rằng): “Hãy cho vật này với vật này, hãy mang lại vật này với vật này, hãy trao đổi vật này với vật này, hãy mua vật này với vật này,” vị tiến hành thì phạm tội dukkaṭa. Khi nào có vật được mua và vật được bán, (tức là) vật của bản thân được đến tay người kia và vật của người kia được đến tay của bản thân thì phạm vào nissaggiya, nên được xả bỏ đến hội chúng, hoặc đến nhóm, hoặc đến cá nhân. Và này các tỳ khưu, nên được xả bỏ như vầy ―(như trên)― “Bạch các ngài, tôi đã tiến hành việc mua bán dưới nhiều hình thức, vật này nên được tôi xả bỏ. Tôi xả bỏ vật này đến hội chúng.” ―(như trên)― hội chúng nên cho lại ―(như trên)― chư đại đức nên cho lại ―(như trên)― “Tôi cho lại đại đức.”
Việc mua bán, nhận biết là việc mua bán, phạm tội nissaggiya pācittiya. Việc mua bán, có sự hoài nghi, phạm tội nissaggiya pācittiya. Việc mua bán, (lầm) tưởng không phải là việc mua bán, phạm tội nissaggiya pācittiya. Không phải là việc mua bán, (lầm) tưởng là việc mua bán, phạm tội dukkaṭa. Không phải là việc mua bán, có sự hoài nghi, phạm tội dukkaṭa. Không phải là việc mua bán, nhận biết không phải là việc mua bán thì vô tội.
Vị hỏi trị giá (của vật), vị chỉ bảo người làm cho đúng phép, vị nói rằng: “Chúng ta có vật này, chúng ta cần vật này và vật này,” vị bị điên, vị vi phạm đầu tiên thì vô tội.”
Dứt điều học về việc mua bán.
Phẩm Tơ Tằm là thứ nhì.
--ooOoo--
Tóm lược phần này
Tơ tằm, thuần (màu đen), hai phần, sáu năm, tấm lót ngồi, hai điều về lông cừu, về việc nhận lấy, cả hai dưới nhiều hình thức.
--ooOoo--
[1] Cân (tulā) là đơn vị đo trọng lượng. Theo cách tính của ngài Mahāsamaṇa Chao ở trong Vinayamukhathì 1 tulā có trọng lượng của 160.000 hạt gạo.
[2] Từ điển của Childers ghi rằng 1 yojana là vào khoảng 12 miles, còn từ điển của Pali Text Society lại ghi là khoảng 7 miles. Trong khi đó The Buddhist Monastic Code của Thanissaro bhikkhu cho biết 1 yojana = 10 miles = 16 km.
[3] Nếu dựa vào câu chuyện này thì giá trị của 1 pāda hoặc 5 māsaka (= ¼ kahāpaṇa) vào thời bấy giờ không cao lắm, xin xem lại pārājika điều hai (ND).
[4] Aḍḍhāḷhakodanaṃ (aḍḍha-āḷhaka-odanaṃ). Aḍḍha là một nửa, āḷhaka là đơn vị đo thể tích, odanaṃ là cơm đã được nấu. Tuy nhiên, nên hiểu là “cơm đã được nấu từ ½ āḷhaka gạo” (VinA. iii, 703), chứ không phải “lượng cơm là ½ āḷhaka.” Người Việt chúng ta cũng nói ăn hết 1 lon là ăn hết 1 lon gạo chứ không phải 1 lon cơm, Ngài Mahāsamaṇa Chao cũng giải thích tương tợ; trong khi đó dịch giả I.B. Horner dịch theo ý sau, nghĩa là “lượng cơm là ½ āḷhaka.”
[5] Theo ngài Mahāsamaṇa Chao giải thích ở Vinayamukha thì 1 āḷhaka = 4 nāḷi/nāḷika = 8 pattha (1 nāli= 2 pattha). Pattha là lượng chứa do hai tay bụm lại. Khi dùng các lượng ½ āḷhaka, 1 nāli, 1 pattha gạo rồi nấu lên thành cơm thì các lượng cơm ấy theo thứ tự là sức chứa đựng của ba loại bình bát cỡ lớn, cỡ vừa, và cỡ nhỏ.
[6] Dvaṅgula (hai ngón tay): aṅgula là chiều dài của ngón tay tương đương độ dài của 7 hạt gạo (VibhA.343). The Buddhist Monastic Code cho biết độ dài của hai ngón tay dvaṅgula khoảng 2 inches = 5,08 cm.
[7] Theo lời giải thích của Ngài Buddhaghosa thì vị nào vì lòng thương hại mà không nhận lấy thì mới phạm tội dukkaṭa, còn vị tự biết đủ (nghĩ rằng): “Bình bát khác cho tôi làm gì?” rồi không nhận lấy thì vô tội (VinA. iii, 708).
[8] Ngài Buddhaghosa giải thích rằng: “Không nên sử dụng sái với cách thức dùng ví dụ như nấu cơm, nấu cháo, nấu thuốc nhuộm, v.v... Tuy nhiên, khi đi đường xa nếu bị bệnh và không có vật gì để nấu thì nên bôi đất sét ở bên ngoài rồi nấu cháo hoặc nấu nước (VinA. iii, 709).
[9] Vị tỳ khưu không được dùng mười loại thịt: thịt người, thịt voi, thịt ngựa, thịt chó, thịt rắn, thịt sư tử, thịt hổ, thịt beo, thịt gấu, thịt chó sói (Mahāvagga - Đại Phẩm, TTPV tập 5, chương VI, trang 557-561).
[10] Ví dụ như khi được phát sanh dầu ăn thì được cất giữ trong thời hạn bảy ngày, trường hợp quyết định làm dầu bôi ở đầu, thuốc thoa tay chân và vết thương thì không phạm tội. Lý do là vì khi sử dụng làm thuốc thoa nên trở thành vật có thể cất giữ đến hết đời (VinA. iii, 718).
[11] Chú giải cho một ví dụ là vị mặc y choàng tắm trị giá cao trong khi tắm sẽ có sự nguy hiểm về trộm cướp (Vin.A. iii, 723).
[12] Kattikatemāsipuṇṇamā (ngày rằm Kattika của ba tháng): Tương đương rằm tháng 9 âm lịch Việt Nam là ngày cuối cùng của mùa (an cư) mưa thời kỳ đầu, ngày này còn là ngày làm lễ Pavāraṇā của các vị tỳ khưu đã trải qua mùa (an cư) mưa thời kỳ đầu. Còn Kattikacatumāsipuṇṇamā (ngày rằm Kattika của bốn tháng) tương đương rằm tháng 10 âm lịch (ND).
[13] Thời hạn về y: nghĩa là khi Kaṭhina không được thành tựu thì một tháng cuối của mùa mưa tương đương 16 tháng chín âm lịch đến hết rằm tháng mười âm lịch; thời gian này còn là thời kỳ dâng y Kaṭhina. Nếu Kaṭhina được thành tựu thì thời hạn về y được kéo dài đến khi nào Kaṭhina còn hiệu lực, hoặc đến hết rằm tháng 2 năm sau tức là thời hạn 5 tháng (ND).
[14] Theo âm lịch của Việt Nam là rằm tháng 10.
[15] The Buddhist Monastic Code cho biết khoảng cách của 500 cây cung độ chừng 1 km.
[16] Những câu kệ phụ trội này chỉ được thấy ở Tạng Tích Lan.
Phiên bản thư viện demo v4.5 [Tipiṭaka Tiếng Việt] Theravada