Lúc bấy giờ, đức Phật Thế Tôn ngự tại thành Sāvatthī, Jetavana, tu viện của ông Anāthapiṇḍika. Vào lúc bấy giờ, người vợ cũ của đi đc Udāyi đã xuất gia nơi các t khưu ni. Cô y thường xuyên đi đến gặp đi đc Udāyi. Đi đc Udāyi cũng thưng xuyên đi gặp tỳ khưu ni ấy. Vào lúc bấy giờ, đi đc Udāyi nhận phần phân phối vật thực ở nơi có sự hiện diện của tỳ khưu ni ấy. Khi ấy vào buổi sáng, đi đc Udāyi đã mặc y, cầm y bát, rồi đi đến gặp tỳ khưu ni y, sau khi đến đã để lộ ra vật kín phía trước (mặt) tỳ khưu ni ấy rồi đã ngồi xuống chỗ ngồi. Tỳ khưu ni y cũng đã để lộ ra vật kín phía trước (mặt) đi đc Udāyi ri đã ngồi xuống chỗ ngồi. Khi ấy, đi đc Udāyi bị khởi dục nên đã suy tưng đến vật kín của tỳ khưu ni ấy. Tinh dịch của vị ấy đã xuất ra.

Khi ấy, đi đc Udāyi đã nói với tỳ khưu ni y điu này: - “Này sư tỷ, hãy đi và đem li nước. Tôi sẽ giặt y nội.” - “Thưa ngài, hãy trao lại. Chính tôi sẽ giặt.” Rồi đã dùng miệng nuốt vào một phần tinh dịch ấy, còn một phần đã đưa vào vật kín. Do việc ấy, cô ấy đã mang thai. Các tỳ khưu ni đã nói như vầy: - “Tỳ khưu ni này không có Phạm hạnh, cô có thai.” - “Này các ni sư, tôi không phải là không có Phạm hạnh,” rồi đã kể lại sự việc ấy cho các tỳ khưu ni. Các t khưu ni phàn nàn, phê phán, chê bai rằng: - “Vì sao ngài đi đc Udāyi lại bảo tỳ khưu ni git y cũ?” Sau đó, các t khưu ni y đã kể lại sự việc ấy cho các tỳ khưu. Các t khưu nào ít ham muốn, các vị ấy phàn nàn, phê phán, chê bai rằng: - “Vì sao đi đc Udāyi lại bảo tỳ khưu ni git y cũ?” Sau đó, các vị tỳ khưu y đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn. - “Này Udāyi, nghe nói ngươi bảo tỳ khưu ni git y cũ, có đúng không vậy?” - “Bạch Thế Tôn, đúng vậy.” - “Này Udāyi, là nữ thân quyến của ngươi hay không phải là nữ thân quyến?” - “Bạch Thế Tôn, không phải là nữ thân quyến.” - “Này kẻ rồ dại, người nam không phải là thân quyến không biết điều gì thích hợp hay không thích hợp, điều gì làm hài lòng hay không làm hài lòng người nữ không phải là thân quyến. Này kẻ rồ dại, trong trường hợp ấy sao ngươi lại bảo tỳ khưu ni không phải là thân quyến giặt y cũ vậy? Này kẻ rồ dại, sự việc này không đem lại niềm tin cho những kẻ chưa có đc tin, ―(như trên)― Và này các tỳ khưu, các ngươi nên phổ biến điều học này như vầy:

Vị tỳ khưu nào bảo tỳ khưu ni không phải là thân quyến giặt, hoặc bảo nhuộm, hoặc bảo đập giũ y cũ thì (y ấy) nên được xả bỏ và (vị ấy) phạm tội pācittiya.

Vị nào: là bất cứ vị nào ―(như trên)

Tỳ khưu ―(như trên)― Vị này là ‘vị tỳ khưu’ đưc đề cập trong ý nghĩa này.

(Người nữ) Không phải là thân quyến nghĩa là người nữ không có sự liên hệ họ hàng cho đến bảy thế hệ tổ tiên từ dòng bên mẹ hoặc từ dòng bên cha.

Tỳ khưu ni nghĩa là người nữ đã được tu lên bậc trên ở cả hai hội chúng.

Y cũ nghĩa là đã được mặc một lần, đã được khoác lên một lần.

Vị chỉ thị rằng: “Hãy giặt” thì phạm tội dukkaṭa. (Y) đã được giặt thì phạm vào nissaggiya. Vị chỉ thị rằng: “Hãy nhuộm” thì phạm tội dukkaṭa. (Y) đã được nhuộm thì phạm vào nissaggiya. Vị chỉ thị rằng: “Hãy đập giũ” thì phạm tội dukkaṭa. Khi (Y) đã được vỗ vào một lần bằng bàn tay hoặc bằng cây gỗ thì phạm vào nissaggiya, (y ấy) cần được xả bỏ đến hội chúng, hoặc đến nhóm, hoặc đến cá nhân.

Và này các tỳ khưu, nên được xả bỏ như vy ―(như trên)― “Bạch các ngài, y cũ này của tôi đã được bảo tỳ khưu ni không phải là thân quyến giặt, giờ cần được xả bỏ. Tôi xả bỏ y này đến hội chúng.” ―(như trên)hội chúng nên cho lại ―(như trên)chư đi đức nên cho lại ―(như trên)― “Tôi cho lại đi đức.”

Không phải là thân quyến, nhận biết không phải là thân quyến, vị bảo giặt y cũ thì phạm tộinissaggiya pācittiya. Không phải là thân quyến, nhận biết không phải là thân quyến, vị bảo giặt, bảo nhuộm y cũ thì phạm tội dukkaṭa với tội nissaggiya pācittiya. Không phải là thân quyến, nhận biết không phải là thân quyến, vị bảo giặt, bảo đập giũ y cũ thì phạm tội dukkaṭa với tội nissaggiya pācittiya. Không phải là thân quyến, nhận biết không phải là thân quyến, vị bảo giặt, bảo nhuộm, bảo đập giũ y cũ thì phạm hai tội dukkaṭa với tội nissaggiya pācittiya.

Không phải là thân quyến, nhận biết không phải là thân quyến, vị bảo nhuộm y cũ thì phạm tội nissaggiya pācittiya. ―(như trên)― vị bảo nhuộm, bảo đập giũ y cũ thì phạm tội dukkaṭa với tội nissaggiya pācittiya. ―(như trên)― vị bảo nhuộm, bảo giặt y cũ thì phạm tội dukkaṭa với tội nissaggiya pācittiya. ―(như trên)― vị bảo nhuộm, bảo đập giũ, bảo giặt y cũ thì phạm hai tội dukkaṭa với tội nissaggiya pācittiya.

Không phải là thân quyến, nhận biết không phải là thân quyến, vị bảo đập giũ y cũ thì phạm tội nissaggiya pācittiya. Không phải là thân quyến, nhận biết không phải là thân quyến, vị bảo đập giũ, bảo giặt y cũ ―(như trên)― vị bảo đập giũ, bảo nhuộm ―(như trên)― vị bảo đập giũ, bảo giặt, bảo nhuộm y cũ thì phạm hai tội dukkaṭa với tội nissaggiya pācittiya.

Không phải là thân quyến, có sự hoài nghi, ―(như trên)― Không phải là thân quyến, (lầm) tưởng là thân quyến, ―(như trên)― Vị bảo giặt y cũ của vị khác thì phạm tội dukkaṭa. Vị bảo giặt tấm lót ngồi (tọa cụ), tấm trải nằm (ngọa cụ) thì phạm tội dukkaṭa. Vị bảo cô ni tu lên bậc trên từ một hội chúng giặt thì phạm tội dukkaṭa. Là thân quyến, (lầm) tưởng không phải là thân quyến, ―(như trên)― phạm tội dukkaṭa. Là thân quyến, có sự hoài nghi, ―(như trên)― phạm tội dukkaṭa. Là thân quyến, nhận biết là thân quyến ―(như trên)― thì vô tội.

Khi vị (tỳ khưu ni) là thân quyến đang giặt có vị (tỳ khưu ni) thứ nhì không phải là thân quyến (phụ giúp), vị (tỳ khưu ni) giặt khi chưa được nói, vị bảo giặt (y) chưa được sử dụng, bị bảo giặt vật dụng khác ngoại trừ y, (vị bảo) cô ni tu tập sự, (vị bảo) sa di ni, vị bị điên, vị vi phạm đầu tiên thì vô tội.”

Dứt điều học về y cũ.

--ooOoo--



Phiên bản thư viện demo v4.5 [Tipiṭaka Tiếng Việt] Theravada