Lúc bấy giờ, đức Phật Thế Tôn ngự tại thành Sāvatthī, Jetavana, tu viện của ông Anāthapiṇḍika. Vào lúc bấy giờ, các vị tỳ khưu sau khi đã trao y tận tay các tỳ khưu ri ra đi du hành trong xứ sở với y nội và thượng y (y vai trái).[10] Các y ấy đưc để lại lâu ngày trở nên mốc meo. Các tỳ khưu đem phơi nắng các y ấy. Đi đc Ānanda trong lúc đi dạo quanh các chỗ trú ngụ đã nhìn thấy các tỳ khưu y đang phơi nắng các y ấy, sau khi nhìn thấy đã đi đến gặp các vị tỳ khưu y, sau khi đến đã nói với các vị tỳ khưu y điu này: - “Này các đi đức, các y bị mốc meo này là của vị nào vậy?” Khi ấy, các vị tỳ khưu y đã kể lại sự việc ấy cho đi đc Ānanda. Đi đc Ānanda phàn nàn, phê phán, chê bai rằng: - “Vì sao các tỳ khưu sau khi trao y tận tay các tỳ khưu li ra đi du hành trong xứ sở với y nội và thưng y?” Sau đó, đi đc Ānanda đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn. - “Này các tỳ khưu, nghe nói các t khưu sau khi trao y tận tay các tỳ khưu ri ra đi du hành trong xứ sở với y nội và thưng y, có đúng không vậy?” - “Bạch Thế Tôn, đúng vy.” Đức Phật Thế Tôn đã khiển trách rằng: - “Này các tỳ khưu, vì sao những kẻ rồ dại ấy, sau khi trao y tận tay các tỳ khưu, li ra đi du hành trong xứ sở với y nội và thượng y vậy? Này các tỳ khưu, sự việc này không đem lại niềm tin cho những kẻ chưa có đc tin, ―(như trên)― Và này các tỳ khưu, các ngươi nên phổ biến điều học này như vầy:

Khi vấn đ y đã được dứt đim đối với vị tỳ khưu tức là khi Kaṭhina đã hết hiệu lực, nếu vị tỳ khưu xa lìa (một trong) ba y dầu chỉ một đêm thì phạm tội nissaggiya pācittiya.

Và điều học này đã đưc đức Thế Tôn quy định cho các tỳ khưu như thế.

[Sự quy đnh căn bản]

Vào lúc bấy giờ, có vị tỳ khưu nọ ở thành Kosambī bị bệnh. Các thân quyến đã phái ngưi đưa tin đến gặp vị tỳ khưu ấy (nói rằng): - “Ngài đi đức hãy đi đến. Chúng tôi sẽ hộ độ.” Các tỳ khưu cũng đã nói như vy: - “Này đi đức, hãy đi. Các thân quyến sẽ hộ đ đi đức.” Vị ấy đã nói như vy: - “Này các đi đc, điều học đã đưc đức Thế Tôn quy định rằng: ‘Không được xa lìa ba y;’ và tôi thì bị bệnh nên không thể mang theo ba y mà ra đi được. Tôi sẽ không đi.” Các v đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn.

Khi ấy, đức Thế Tôn nhân lý do ấy nhân sự kiện ấy đã nói Pháp thoại rồi bảo các tỳ khưu rằng: - “Này các tỳ khưu, Ta cho phép ban cho sự đồng ý về việc không phạm tội vì xa lìa ba y đối với tỳ khưu bị bệnh. Và này các tỳ khưu, nên ban cho như vầy: Vị tỳ khưu bị bệnh ấy nên đi đến hội chúng, đp thượng y một bên vai, đảnh lễ ở chân các tỳ khưu trưng thượng, ngồi chồm hổm, chắp tay lên, và nên nói như vầy: - ‘Bạch các ngài, tôi bị bệnh không thể mang theo ba y mà ra đi được. Bạch các ngài, tôi đây thỉnh cầu hội chúng sự đồng ý về việc không phạm tội vì xa lìa ba y.’ Nên được thỉnh cầu lần thứ nhì. Nên được thỉnh cầu lần thứ ba. Hội chúng cần được thông báo bởi vị tỳ khưu có kinh nghim, đ năng lực:

Bạch các ngài, xin hội chúng hãy lắng nghe tôi. Vị tỳ khưu này tên (như vầy) bị bệnh không thể mang theo ba y mà ra đi được. Vị ấy thỉnh cầu hội chúng sự đồng ý về việc không phạm tội vì xa lìa ba y. Nếu là thời điểm thích hợp cho hội chúng, hội chúng nên ban cho sự đồng ý về việc không phạm tội vì xa lìa ba y đến vị tỳ khưu tên (như vy). Đây là li đề nghị.

Bạch các ngài, xin hội chúng hãy lắng nghe tôi. Vị tỳ khưu này tên (như vầy) bị bệnh không thể mang theo ba y mà ra đi được. Vị ấy thỉnh cầu hội chúng sự đồng ý về việc không phạm tội vì xa lìa ba y. Hội chúng ban cho sự đồng ý về việc không phạm tội vì xa lìa ba y đến vị tỳ khưu tên (như vy). Đi đc nào đồng ý việc ban cho sự đồng ý về việc không phạm tội vì xa lìa ba y đến vị tỳ khưu tên (như vầy) xin im lặng; vị nào không đồng ý có thể nói lên.

Sự đồng ý về việc không phạm tội vì xa lìa ba y đã được hội chúng ban cho vị tỳ khưu tên (như vầy). Sự việc được hội chúng đồng ý nên mới im lặng, tôi ghi nhận sự việc này là như vậy.

Và này các tỳ khưu, các ngươi nên phổ biến điều học này như vầy:

Khi vấn đ y đã được dứt đim đối với vị tỳ khưu tức là khi Kaṭhina đã hết hiệu lực, nếu vị tỳ khưu xa lìa (một trong) ba y dầu chỉ một đêm thì (y ấy) nên được xả bỏ và (vị ấy) phạm tội pācittiya, ngoại trừ có sự đồng ý của các tỳ khưu.

[Sự quy định lần hai]

Khi vấn đ y đã được dứt điểm: Y của vị tỳ khưu đã được làm xong, hoặc là đã bị mất, hoặc là đã bị hư hỏng, hoặc là đã bị cháy, hoặc là niềm mong mỏi về y đã bị tan vỡ.

Khi Kaṭhina đã hết hiệu lực: là đã hết hiệu lực do bất cứ tiêu đ nào trong tám tiêu đề, hoặc là đã hết hiệu lực giữa chừng do hội chúng.

Nếu vị tỳ khưu xa lìa ba y dầu chỉ một đêm: Nếu đã xa lìa hoặc là y hai lớp, hoặc là thượng y, hoặc là y nội dầu chỉ một đêm.

Ngoại trừ có sự đồng ý của các tỳ khưu: Trừ ra có sự đồng ý của các tỳ khưu.

Thì (y ấy) nên được xả bỏ: Đến lúc hừng đông thì phạm vào nissaggiya, (y ấy) cần được xả bỏ đến hội chúng, hoặc đến nhóm, hoặc đến cá nhân. Và này các tỳ khưu, nên được xả bỏ như vy: ―(như trên)― “Bạch các ngài, y này của tôi đã xa lìa qua đêm giờ cần được xả bỏ, ngoại trừ có sự đồng ý của các tỳ khưu. Tôi xả bỏ y này đến hội chúng.” ―(như trên)hội chúng nên cho lại ―(như trên)― chư đi đức nên cho lại ―(như trên)― “Tôi cho lại đi đức.”

Làng một địa hạt, nhiều địa hạt; gia trang một địa hạt, nhiều địa hạt; trang trại một địa hạt, nhiều địa hạt; nhà mái nhọn một địa hạt, nhiều địa hạt; tòa nhà vuông một địa hạt, nhiều địa hạt; tòa nhà lớn một địa hạt, nhiều địa hạt; tòa nhà dài một địa hạt, nhiều địa hạt; chiếc thuyền một địa hạt, nhiều địa hạt; đoàn xe mt địa hạt, nhiều địa hạt; cánh đồng một địa hạt, nhiều địa hạt; ruộng lúa một địa hạt, nhiều địa hạt; khu vườn một địa hạt, nhiều địa hạt; trú xá một địa hạt, nhiều địa hạt; gốc cây một địa hạt, nhiều địa hạt; khoảng không gian một địa hạt, nhiều địa hạt.

Làng một địa hạt nghĩa là làng thuộc về một gia đình và được rào lại, sau khi đã để y ở trong làng thì nên hiện diện trong làng. (Nếu) không được rào lại, y đã đưc để ở tại nhà nào thì nên hiện diện tại nhà đó, hoặc là không nên rời khỏi tầm tay.[11]

Làng thuộc về nhiều gia đình và được rào lại, y đã đưc để ở tại nhà nào thì nên hiện diện tại nhà đó: ở trong phòng hội họp, hoặc ở nơi ngưỡng cửa, hoặc là không nên rời khỏi tầm tay. Khi đi đến phòng hội họp, sau khi đã để y ở trong tầm tay thì nên hiện diện ở trong phòng hội họp hoặc ở nơi ngưỡng cửa, hoặc là không nên rời khỏi tầm tay. Sau khi đã để y ở trong phòng hội họp, nên hiện diện ở trong phòng hội họp hoặc ở nơi ngưỡng cửa, hoặc là không nên rời khỏi tầm tay. (Nếu) không được rào lại, y đã đưc để ở tại nhà nào thì nên hiện diện tại nhà đó, hoặc là không nên rời khỏi tầm tay.

Gia trang thuộc về một gia đình là được rào lại và có nhiều căn phòng, nhiều hậu phòng. Sau khi đã để y ở trong gia trang thì nên hiện diện trong gia trang. (Nếu) không được rào lại, y đã đưc để ở trong căn phòng nào thì nên hiện diện ở trong căn phòng đó, hoặc là không nên rời khỏi tầm tay.

Gia trang thuộc về nhiều gia đình là được rào lại và có nhiều căn phòng, nhiều hậu phòng. Y đã đưc để ở trong căn phòng nào thì nên hiện diện ở trong căn phòng đó hoặc ở nơi ngưỡng cửa, hoặc là không nên rời khỏi tầm tay. (Nếu) không được rào lại, y đã đưc để ở trong căn phòng nào thì nên hiện diện ở trong căn phòng đó, hoặc là không nên rời khỏi tầm tay.

Trang trại thuộc về một gia đình và được rào lại, có nhiều căn phòng, nhiều hậu phòng. Sau khi đã để y ở trong trang trại thì nên hiện diện trong trang trại. (Nếu) không được rào lại, y đã đưc để ở trong căn phòng nào thì nên hiện diện ở trong căn phòng đó, hoặc là không nên rời khỏi tầm tay.

Trang trại thuộc về nhiều gia đình và được rào lại, có nhiều căn phòng, nhiều hậu phòng. Y đã đưc để ở trong căn phòng nào thì nên hiện diện ở trong căn phòng đó hoặc ở nơi ngưỡng cửa, hoặc là không nên rời khỏi tầm tay. (Nếu) không được rào lại, y đã đưc để ở trong căn phòng nào thì nên hiện diện ở trong căn phòng đó, hoặc là không nên rời khỏi tầm tay.

Nhà mái nhọn thuộc về một gia đình: Sau khi đã để y ở trong nhà mái nhọn thì nên hiện diện trong nhà mái nhọn. Nhà mái nhọn thuộc về nhiều gia đình là có nhiều căn phòng, nhiều hậu phòng. Y đã đưc để ở trong căn phòng nào thì nên hiện diện ở trong căn phòng đó hoặc ở nơi ngưỡng cửa, hoặc là không nên rời khỏi tầm tay.

Tòa nhà vuông thuộc về một gia đình: Sau khi đã để y ở trong tòa nhà vuông thì nên hiện diện trong tòa nhà vuông. Tòa nhà vuông thuộc về nhiều gia đình là có nhiều căn phòng, nhiều hậu phòng. Y đã đưc để ở trong căn phòng nào thì nên hiện diện ở trong căn phòng đó hoặc ở nơi ngưỡng cửa, hoặc là không nên rời khỏi tầm tay.

Tòa nhà lớn thuộc về một gia đình: Sau khi đã để y ở trong tòa nhà lớn thì nên hiện diện trong tòa nhà lớn. Tòa nhà lớn thuộc về nhiều gia đình là có nhiều căn phòng, nhiều hậu phòng. Y đã đưc để ở trong căn phòng nào thì nên hiện diện ở trong căn phòng đó hoặc ở nơi ngưỡng cửa, hoặc là không nên rời khỏi tầm tay.

Tòa nhà dài thuộc về một gia đình: Sau khi đã để y ở trong khu nhà dài thì nên hiện diện trong khu nhà dài. Tòa nhà dài thuộc về nhiều gia đình là có nhiều căn phòng, nhiều hậu phòng. Y đã đưc để ở trong căn phòng nào thì nên hiện diện ở trong căn phòng đó hoặc ở nơi ngưỡng cửa, hoặc là không nên rời khỏi tầm tay.

Chiếc thuyền thuộc về một gia đình: Sau khi đã để y ở trong chiếc thuyền thì nên hiện diện trong chiếc thuyền. Chiếc thuyền thuộc về nhiều gia đình là có nhiều căn phòng, nhiều hậu phòng. Y đã đưc để ở trong hậu phòng nào thì nên hiện diện trong hậu phòng đó hoặc ở nơi ngưỡng cửa, hoặc là không nên rời khỏi tầm tay.

Đoàn xe thuộc về một gia đình: Sau khi đã để y ở trong đoàn xe thì không nên rời xa phía trước hoặc phía sau quá bảy abbhantara,[12] không nên xa rời phía bên hông quá một abbhantara. Đoàn xe thuộc về nhiều gia đình: Sau khi đã để y ở trong đoàn xe thì không nên rời xa khỏi tầm tay.

Cánh đồng thuộc về một gia đình và được rào lại, sau khi đã để y ở bên trong cánh đồng thì nên hiện diện bên trong cánh đồng. (Nếu) không được rào lại thì không nên rời khỏi tầm tay. Cánh đồng thuộc về nhiều gia đình và được rào lại, sau khi đã để y ở bên trong cánh đồng thì nên hiện diện bên trong cánh đồng hoặc ở nơi ngưỡng cửa, hoặc là không nên rời khỏi tầm tay. (Nếu) không được rào lại thì không nên rời khỏi tầm tay.

Ruộng lúa thuộc về một gia đình và được rào lại, sau khi đã để y bên trong ruộng lúa thì nên hiện diện bên trong ruộng lúa. (Nếu) không được rào lại thì không nên rời khỏi tầm tay. Ruộng lúa thuộc về nhiều gia đình và được rào lại, sau khi đã để y ở bên trong ruộng lúa thì nên hiện diện ở nơi ngưỡng cửa hoặc là không nên rời khỏi tầm tay. (Nếu) không được rào lại thì không nên rời khỏi tầm tay.

Khu vườn thuộc về một gia đình và được rào lại, sau khi đã để y ở bên trong khu vườn thì nên hiện diện ở bên trong khu vườn. (Nếu) không được rào lại thì không nên rời khỏi tầm tay. Khu vườn thuộc về nhiều gia đình và được rào lại, sau khi đã để y ở bên trong khu vườn thì nên hiện diện ở nơi ngưỡng cửa hoặc là không nên rời khỏi tầm tay. (Nếu) không được rào lại thì không nên rời khỏi tầm tay.

Trú xá thuộc về một gia đình và được rào lại, sau khi đã để y ở bên trong trú xá thì nên hiện diện bên trong trú xá. (Nếu) không được rào lại, y đã đưc để ở tại trú xá nào thì nên hiện diện tại trú xá ấy, hoặc là không nên rời khỏi tầm tay. Trú xá thuộc về nhiều gia đình và được rào lại, y đã đưc để ở tại trú xá nào thì nên hiện diện tại trú xá ấy hoặc ở nơi ngưỡng cửa, hoặc là không nên rời khỏi tầm tay. (Nếu) không được rào lại, y đã đưc để ở tại trú xá nào thì nên hiện diện tại trú xá ấy hoặc là không nên rời khỏi tầm tay.

Gốc cây thuộc về một gia đình là toàn bộ bóng râm được chiếu xuống vào lúc nửa ngày (giữa trưa). Sau khi đã để y ở bên trong bóng râm thì nên hiện diện bên trong bóng râm. Gốc cây thuộc về nhiều gia đình thì không nên rời khỏi tầm tay.

Khoảng không gian một địa hạt nghĩa là không ở trong thôn làng, ở trong rừng, khoảng không gian xung quanh bảy abbhantara là một địa hạt,[13] từ đó tr đi là nhiu địa hạt.

Khi đã xa lìa, nhận biết là đã xa lìa, phạm tội nissaggiya pācittiya ngoại trừ có sự đồng ý của các tỳ khưu. Khi đã xa lìa, có sự hoài nghi, phạm tội nissaggiya pācittiya ngoại trừ có sự đồng ý của các tỳ khưu. Khi đã xa lìa, (lầm) tưng là chưa xa lìa, phạm tội nissaggiya pācittiya ngoại trừ có sự đồng ý của các tỳ khưu. Khi chưa nguyện xả, (lầm) tưng là đã nguyện xả, ... Khi chưa được phân phát, (lầm) tưng là đã phân phát, ... Khi không bị mất trộm, (lầm) tưng là đã bị mất trộm, ... Khi không bị hư hỏng, (lầm) tưng là đã bị hư hỏng, ... Khi không bị cháy, (lầm) tưởng là đã bị cháy, ... Khi không bị cướp, (lầm) tưng là đã bị cướp, phạm tội nissaggiya pācittiya ngoại trừ có sự đồng ý của các tỳ khưu. Y phạm vàonissaggiya, không xả bỏ rồi sử dụng, phạm tội dukkaṭa. Khi chưa bị xa lìa, (lầm) tưng là đã bị xa lìa, phạm tội dukkaṭa. Khi chưa bị xa lìa, có sự hoài nghi, phạm tội dukkaṭa. Khi chưa bị xa lìa, nhận biết là chưa bị xa lìa thì vô tội.

Vị nguyện xả vào thời điểm rạng đông, vị phân phát, (y) bị mất trộm, (y) bị hư hỏng, (y) bị cháy, (những ngưi khác) cướp rồi lấy đi, (các vị khác) lấy do sự thân thiết, với sự đồng ý của các tỳ khưu, vị bị điên, vị vi phạm đầu tiên thì vô tội.”

Dứt điều học thứ nhì về kaṭhina.

--ooOoo--



Phiên bản thư viện demo v4.5 [Tipiṭaka Tiếng Việt] Theravada