Lúc bấy giờ, đức Phật Thế Tôn ngự tại thành Vesālī, ở tháp thờ Gotamaka. Vào lúc bấy giờ, ba y đã đưc đức Thế Tôn cho phép đến các tỳ khưu. Các t khưu nhóm Lc Sư (nghĩ rng): “Ba y đã đưc đức Thế Tôn cho phép” nên đi vào làng với ba y nọ, mặc ở trong tu viện với ba y khác, và đi xuống tắm với ba y khác nữa. Các tỳ khưu nào ít ham muốn, các vị ấy phàn nàn, phê phán, chê bai rằng: - “Tại sao các tỳ khưu nhóm Lc Sư lại sử dụng y phụ trội?” Sau đó, các vị tỳ khưu y đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn. ―(như trên)― “Này các tỳ khưu, nghe nói các ngươi sử dụng y phụ trội, có đúng không vậy?” - “Bạch Thế Tôn, đúng vậy.” Đức Phật Thế Tôn đã khiển trách rằng: - “Này những kẻ rồ dại, vì sao các ngươi lại sử dụng y phụ trội vậy? Này những kẻ rồ dại, sự việc này không đem lại niềm tin cho những kẻ chưa có đc tin, ―(như trên)― Và này các tỳ khưu, các ngươi nên phổ biến điều học này như vầy:

Vị tỳ khưu nào sử dụng y phụ trội thì phạm tội nissaggiya pācittiya.

Và điều học này đã đưc đức Thế Tôn quy định cho các tỳ khưu như thế.

[Sự quy đnh căn bản]

Vào lúc bấy giờ, có y phụ trội phát sanh đến đi đc Ānanda. Đi đức Ānanda có ý định dâng y ấy đến đi đc Sāriputta. Và đi đc Sāriputta cư ngụ ở Sāketa. Khi y, đi đc Ānanda đã khởi ý điu này: “Điều học đã đưc đức Thế Tôn quy đnh là: ‘Không được sử dụng y phụ trội’ và y phụ trội này đã đưc phát sanh đến ta. Và ta có ý đnh dâng y này đến đi đc Sāriputta mà đi đc Sāriputta cư ngụ ở Sāketa; vậy ta nên thực hành như thế nào?” Sau đó, đi đc Ānanda đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn. - “Này Ānanda, bao lâu nữa Sāriputta s đi đến đây?” - “Bạch Thế Tôn, ngày thứ chín hoặc ngày thứ mười.” Khi ấy, đức Thế Tôn nhân lý do ấy nhân sự kiện ấy đã nói Pháp thoại rồi bảo các tỳ khưu rằng: - “Này các tỳ khưu, Ta cho phép cất giữ[4] y phụ trội tối đa mười ngày. Và này các tỳ khưu, các ngươi nên phổ biến điều học này như vầy:

 “Khi vấn đ y đã được dứt đim đối với vị tỳ khưu tức là khi Kaṭhina đã hết hiệu lực, y phụ trội được cất giữ tối đa mưi ngày. Vượt quá hạn ấy thì (y ấy) nên được xả bỏ và (vị ấy) phạm tội pācittiya.”[5]

[Sự quy định lần hai]

Khi vấn đ y đã được dứt điểm: Y của vị tỳ khưu đã được làm xong, hoặc là đã bị mất, hoặc là đã bị hư hỏng, hoặc là đã bị cháy, hoặc là niềm mong mỏi về y đã bị tan vỡ.

Khi Kaṭhina đã hết hiệu lực: là đã hết hiệu lực do bất cứ tiêu đ nào trong tám tiêu đề,[6]hoặc là đã hết hiệu lực giữa chừng do hội chúng.[7]

Tối đa mưi ngày: là được cất giữ nhiều nhất là mười ngày.

Y phụ trội nghĩa là chưa được chú nguyện đ dùng riêng, chưa được chú nguyện để dùng chung.

Y nghĩa là bất cứ loại y nào thuộc về sáu loại y[8] (có kích thước) tối thiểu[9] cần phải chú nguyện để dùng chung.

ợt quá hạn ấy thì (y ấy) nên được xả bỏ: Đến lúc hừng đông ngày th mười một thì phạm vào nissaggiya, (y ấy) cần được xả bỏ đến hội chúng, hoặc đến nhóm, hoặc đến cá nhân. Và này các tỳ khưu, nên được xả bỏ như vầy: Vị tỳ khưu y nên đi đến hội chúng, đp thượng y một bên vai, đảnh lễ ở chân các tỳ khưu trưng thượng, ngồi chồm hổm, chắp tay lên, và nên nói như vầy: - “Bạch các ngài, y này của tôi đã quá hạn mười ngày cần được xả bỏ. Tôi xả bỏ (y) này đến hội chúng.” Sau khi xả bỏ, nên sám hối tội. Tội nên được ghi nhận bởi vị tỳ khưu có kinh nghim đ năng lc, và y đã xả bỏ nên được cho lại:

Bạch các ngài, xin hội chúng hãy lắng nghe tôi. Y này thuộc về vị tỳ khưu tên (như vầy) là vật phạm vào nissaggiya đã được xả bỏ đến hội chúng. Nếu là thời điểm thích hợp cho hội chúng, hội chúng nên cho lại y này đến vị tỳ khưu tên (như vầy).”

Vị tỳ khưu y nên đi đến nhiều vị tỳ khưu, đp thượng y một bên vai, đảnh lễ ở chân các tỳ khưu trưng thượng, ngồi chồm hổm, chắp tay lên, và nên nói như vầy: - “Bạch các ngài, y này của tôi đã quá hạn mười ngày cần được xả bỏ. Tôi xả bỏ vật này đến các đi đức.” Sau khi xả bỏ, nên sám hối tội. Tội nên được ghi nhận bởi vị tỳ khưu có kinh nghim đ năng lc, và y đã xả bỏ nên được cho lại:

Xin chư đi đức hãy lắng nghe tôi. Y này thuộc về vị tỳ khưu tên (như vầy) là vật phạm vào nissaggiya đã được xả bỏ đến chư đi đức. Nếu là thời điểm thích hợp cho chư đi đc, chư đi đức nên cho lại y này đến vị tỳ khưu tên (như vầy).”

Vị tỳ khưu ấy nên đi đến một vị tỳ khưu, đp thượng y một bên vai, ngồi chồm hổm, chắp tay lên, và nên nói như vầy: - “Bạch đi đức, y này của tôi đã quá hạn mười ngày cần được xả bỏ. Tôi xả bỏ y này đến đi đức.” Sau khi xả bỏ, nên sám hối tội. Tội nên được ghi nhận bởi vị tỳ khưu y và y đã xả bỏ nên được cho lại: “Tôi cho lại đi đức y này.”

Khi quá hạn mười ngày, nhận biết là đã quá hạn, phạm tội nissaggiya pācittiya. Khi quá hạn mười ngày, có sự hoài nghi, phạm tội nissaggiya pācittiya. Khi quá hạn mười ngày, (lầm) tưng là chưa quá hạn, phạm tội nissaggiya pācittiya. Khi chưa được chú nguyện để dùng riêng, (lầm) tưng là đã được chú nguyện để dùng riêng, phạm tội nissaggiya pācittiya. Khi chưa được chú nguyện để dùng chung, (lầm) tưởng là đã được chú nguyện để dùng chung, phạm tội nissaggiya pācittiya. Khi chưa được phân phát, (lầm) tưng là đã được phân phát, phạm tội nissaggiya pācittiya. Khi không bị mất trộm, (lầm) tưng là đã bị mất trộm, phạm tội nissaggiya pācittiya. Khi không bị hư hỏng, (lầm) tưng là đã bị hư hỏng, phạm tội nissaggiya pācittiya. Khi không bị cháy, (lầm) tưng là đã bị cháy, phạm tội nissaggiya pācittiya. Khi không bị cướp, (lầm) tưng là đã bị cướp, phạm tội nissaggiya pācittiya. Y phạm vào nissaggiya, không xả bỏ rồi sử dụng, phạm tội dukkaṭa. Khi chưa quá hn mười ngày, (lầm) tưng là đã quá hạn, phạm tội dukkaṭa. Khi chưa quá hn mười ngày, có sự hoài nghi, phạm tội dukkaṭa. Khi chưa quá hn mười ngày, nhận biết là chưa quá hạn thì vô tội.

Trong thời hạn ời ngày, vị chú nguyện để dùng riêng, vị chú nguyện để dùng chung, vị phân phát, (y) bị mất trộm, (y) bị hư hỏng, (y) bị cháy, (những ngưi khác) cướp rồi lấy đi, (các vị khác) lấy do sự thân thiết, vị bị điên, vị vi phạm đầu tiên thì vô tội.”

Vào lúc bấy giờ, các tỳ khưu nhóm Lc Sư không cho li y đã được xả bỏ. Các vị đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn. - “Này các tỳ khưu, không nên không cho li y đã được xả bỏ; vị nào không cho lại thì phạm tội dukkaṭa.”

Dứt điều học thứ nhất về kaṭhina.

--ooOoo--



Phiên bản thư viện demo v4.5 [Tipiṭaka Tiếng Việt] Theravada