Lúc bấy giờ, đức Phật Thế Tôn ngự tại thành Sāvatthī, Jetavana, tu viện của ông Anāthapiṇḍika. Vào lúc bấy giờ, đi đc Udāyi (nghĩ rng): “Đức Thế Tôn đã cấm đoán việc cùng với người nữ, một nam một nữ ngồi ở chỗ ngồi kín đáo, được che khuất, thuận tiện cho hành đng” nên đã cùng với chính người con gái ấy, một nam một nữ ngồi ở nơi kín đáo, tùy lúc thì tâm sự, tùy lúc thì nói Pháp. Đến lần thứ nhì, bà Visākhā mẹ của Migāra được thỉnh mời nên đã đi đến gia đình ấy. Rồi bà Visākhā mẹ của Migāra đã nhìn thấy đi đc Udāyi cùng với chính người con gái ấy, một nam một nữ ngồi ở nơi kín đáo, sau khi nhìn thấy đã nói với đi đc Udāyi điu này: - “Thưa ngài, điều này là không thích hợp, là không đúng đắn. Là việc ngài đi đức cùng với người nữ, một nam một nữ ngồi ở nơi kín đáo. Thưa ngài, mặc dầu ngài đi đc không có ước muốn gì đến chuyện ấy, tuy nhiên những người không có niềm tin thì khó mà thuyết phục lắm.” Tuy được bà Visākhā mẹ của Migāra nói như thế, đi đc Udāyi đã không lưu tâm đến.

Sau đó, bà Visākhā mẹ của Migāra đã ra về và đã kể lại sự việc ấy cho các tỳ khưu. Các t khưu nào ít ham muốn, các vị ấy phàn nàn, phê phán, chê bai rằng: - “Vì sao đi đc Udāyi lại cùng với người nữ, một nam một nữ ngồi ở nơi kín đáo?” Sau đó, các vị tỳ khưu y đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn. ―(như trên)― “Này Udāyi, nghe nói ngươi cùng vi người nữ, một nam một nữ ngồi ở nơi kín đáo, có đúng không vậy?” - “Bạch Thế Tôn, đúng vy.” Đức Phật Thế Tôn đã khiển trách rằng: - “Này kẻ rồ dại, vì sao ngươi lại cùng với người nữ, một nam một nữ ngồi ở nơi kín đáo vậy? Này kẻ rồ dại, sự việc này không đem lại niềm tin cho những kẻ chưa có đc tin, ―(như trên)― Và này các tỳ khưu, các ngươi nên phổ biến điều học này như vầy:

Hơn nữa, khi chỗ ngồi là không được che khuất, không thuận tiện cho hành đng, nhưng thích hp để nói với người nữ bằng những lời thô tục. Vị tỳ khưu nào ở chỗ ngồi có hình thức như thế cùng với người nữ, một nam một nữ ngồi ở nơi kín đáo, có n cư sĩ có li nói đáng tin cậy sau khi thấy rồi tố cáo vị ấy với một tội nào đó trong hai tội: hoặc là với tội saṅghādisesa, hoặc là với tội pācittiya. (Nếu) vị tỳ khưu thú nhận việc ngồi thì nên hành xử với một tội nào đó trong hai tội: hoặc là với tội saṅghādisesa, hoặc là với tội pācittiya; hoặc là nữ cư sĩ có li nói đáng tin cậy ấy tố cáo với tội nào thì nên hành xử vị tỳ khưu ấy theo tội ấy. Đây cũng là điều aniyata.

Hơn nữa, khi chỗ ngồi là không được che khuất: là không được che khuất bởi bức tường, hoặc bởi cánh cửa, hoặc bởi tấm màn, hoặc bởi tấm vách chắn, hoặc bởi cội cây, hoặc bởi cột nhà, hoặc bởi nhà kho, hoặc bởi bất cứ vật gì.

Không thuận tiện cho hành động: là không thể thực hiện việc đôi lứa.

Nhưng thích hp để thốt ra với người nữ bằng những lời thô tục: là có thể nói với người nữ bằng những lời thô tục.

Vị nào: là bất cứ vị nào ―(như trên)

Tỳ khưu ―(như trên)― Vị này là ‘vị tỳ khưu’ đưc đề cập trong ý nghĩa này.

Ở chỗ ngồi có hình thức như thế: ở chỗ ngồi y như thế ấy.

Người nữ nghĩa là nữ nhân loại, không phải nữ Dạ-xoa, không phải ma nữ, không phải loài thú cái, có trí suy xét, có khả năng nhận biết lời nói tốt và lời nói xấu, là (lời nói) thô tục và không thô tục.

Với: cùng chung.

Một nam một nữ: chỉ có vị tỳ khưu và người nữ.

Kín đáo: nghĩa là kín đáo đối với mắt, kín đáo đối với tai.Kín đáo đối với mắt nghĩa là không thể nhìn thấy trong khi bị che mắt lại, trong khi nhướng mày, trong khi ngẩng đầu lên.Kín đáo đối với tai nghĩa là không thể nghe lời nói (với giọng) bình thường.

Ngồi: Khi người nữ đang ngồi thì vị tỳ khưu ngồi gần hoặc nằm gần, khi vị tỳ khưu đang ngồi thì người nữ ngồi gần hoặc nằm gần, hoặc cả hai đang ngồi, hoặc cả hai đang nằm.

Có lời nói đáng tin cậy: nghĩa là người nữ đã chứng Thánh Quả, đã thông suốt Tứ Diệu Đế, đã hiểu rõ Tam Học: Giới, Định, Tuệ.

Nữ cư sĩ nghĩa là người nữ đã đi đến nương nh đức Phật, đã đi đến nương nh Giáo Pháp, đã đi đến nương nhờ Hội Chúng.

Sau khi thấy: sau khi đã nhìn thấy.

(Cô ấy) có thể tố cáo với một tội nào đó trong hai tội: hoặc là với tội saṅghādisesa, hoặc là với tội pācittiya, (nếu) vị tỳ khưu thú nhận việc ngồi thì nên được hành xử với một tội nào đó trong hai tội: hoặc là với tội saṅghādisesa, hoặc là với tội pācittiya; hoặc là nữ cư sĩ có li nói đáng tin cậy ấy tố cáo với tội nào thì nên hành xử vị tỳ khưu ấy theo tội ấy.

Nếu cô ấy tố cáo như vy: “Tôi đã thấy ngài đi đc đã ngồi và đang thực hiện việc xúc chạm cơ thể với người nữ,” và vị ấy thú nhận điều ấy thì nên hành xử theo tội vi phạm.

Nếu cô ấy tố cáo như vy: “Tôi đã thấy ngài đi đc đã ngồi và đang thực hiện việc xúc chạm cơ thể với người nữ,” nếu vị ấy nói như vầy: “Sự thật là tôi đã ngồi nhưng tôi đã không thực hiện việc xúc chạm cơ thể” thì nên hành xử theo việc ngồi. ―(như trên)― “Tôi đã không ngồi nhưng đã nằm” thì nên hành xử theo việc nằm. ―(như trên)― “Tôi đã không ngồi nhưng đã đứng” thì không nên hành xử.

Nếu cô ấy tố cáo như vy: “Tôi đã thấy ngài đi đc đã nằm và đang thực hiện việc xúc chạm cơ thể với người nữ,” và vị ấy thú nhận điều ấy thì nên hành xử theo tội vi phạm. ―(như trên)― “Sự thật là tôi đã nằm nhưng tôi đã không thực hiện việc xúc chạm cơ thể” thì nên hành xử theo việc nằm. ―(như trên)― “Tôi đã không nằm nhưng đã ngồi” thì nên hành xử theo việc ngồi. ―(như trên)― “Tôi đã không nằm nhưng đã đứng” thì không nên hành xử.

Nếu cô ấy tố cáo như vy: “Tôi đã nghe được rằng ngài đi đc đã ngồi và đang nói vi người nữ bằng những lời thô tục,” và vị ấy thú nhận điều ấy thì nên hành xử theo tội vi phạm. ―(như trên)― “Sự thật là tôi đã ngồi nhưng tôi đã không nói với người nữ bằng những lời thô tục” thì nên hành xử theo việc ngồi. ―(như trên)― “Tôi đã không ngồi nhưng đã nằm” thì nên hành xử theo việc nằm. ―(như trên)― “Tôi đã không ngồi nhưng đã đứng” thì không nên hành xử.

Nếu cô ấy tố cáo như vy: “Tôi đã nghe được rằng ngài đại đc đã nằm và đang nói vi người nữ bằng những lời thô tục,” và vị ấy thú nhận điều ấy thì nên hành xử theo tội vi phạm. ―(như trên)― “Sự thật là tôi đã nằm nhưng tôi đã không nói bằng những lời thô tục” thì nên hành xử theo việc nằm. ―(như trên)― “Tôi đã không nằm nhưng đã ngồi” thì nên hành xử theo việc ngồi. ―(như trên)― “Tôi đã không nằm nhưng đã đứng” thì không nên hành xử.

Nếu cô ấy tố cáo như vy: “Tôi đã thấy ngài đi đức cùng với người nữ, một nam một nữ đã ngồi ở chỗ kín đáo,” và vị ấy thú nhận điều ấy thì nên hành xử theo việc ngồi. ―(như trên)― “Tôi đã không ngồi nhưng đã nằm” thì nên hành xử theo việc nằm. ―(như trên)― “Tôi đã không ngồi nhưng đã đứng” thì không nên hành xử.

Nếu cô ấy tố cáo như vy: “Tôi đã thấy ngài đi đức cùng với người nữ, một nam một nữ đã nằm ở chỗ kín đáo,” và vị ấy thú nhận điều ấy thì nên hành xử theo việc nằm. ―(như trên)― “Tôi đã không nằm nhưng đã ngồi” thì nên hành xử theo việc ngồi. ―(như trên)― “Tôi đã không nằm nhưng đã đứng” thì không nên hành xử.

Đây cũng là: được gọi như thế vì có liên quan đến điu trước.

Tội aniyata: không chắc chắn là tội saṅghādisesa, hay là tội pācittiya.

Vị thú nhận việc đi đến, thú nhận việc ngồi xuống, thú nhận tội thì nên hành xử theo tội vi phạm. Vị thú nhận việc đi đến, không thú nhận việc ngồi xuống, thú nhận tội thì nên hành xử theo tội vi phạm. Vị thú nhận việc đi đến, thú nhận việc ngồi xuống, không thú nhận tội thì nên hành xử theo việc ngồi. Vị thú nhận việc đi đến, không thú nhận việc ngồi xuống, không thú nhận tội thì không nên hành xử.

Vị không thú nhận việc đi đến, thú nhận việc ngồi xuống, thú nhận tội thì nên hành xử theo tội vi phạm. Vị không thú nhận việc đi đến, không thú nhận việc ngồi xuống, thú nhận tội thì nên hành xử theo tội vi phạm. Vị không thú nhận việc đi đến, thú nhận việc ngồi xuống, không thú nhận tội thì nên hành xử theo việc ngồi. Vị không thú nhận việc đi đến, không thú nhận việc ngồi xuống, không thú nhận tội thì không nên hành xử.”

Dứt điều học aniyata thứ nhì.

--ooOoo--

 Bạch chư đi đc, hai điều aniyata đã đưc đọc tụng xong. Trong các điều ấy, tôi hỏi các đi đức rằng: Chắc hẳn các vị được thanh tịnh trong vấn đ này? Đến lần thứ nhì, tôi hỏi rằng: Chắc hẳn các vị được thanh tịnh trong vấn đ này? Đến lần thứ ba, tôi hỏi rằng: Chắc hẳn các vị được thanh tịnh trong vấn đ này? Các đi đc được thanh tịnh nên mới im lặng. Tôi ghi nhận sự việc này là như vậy.”

--ooOoo--

Tóm lưc chương này

(Nơi) thuận tiện cho hành đng, và tương t y như thế về nơi không thuận tiện. (Hai) điều học aniyata đã khéo được quy định bởi đức Phật tối thưng như thế ấy.

Dứt Chương Aniyata.

--ooOoo--

 [1] Xem xét khi nào không có ai qua lại thì hỏi han chuyện gia đình: “Chắc là cô hạnh phúc? Chắc là cô không bị mệt nhọc? Chắc là cô không bị đói?” v.v... Khi nào có ai đi lại gần thì nói Pháp: “Nên thọ bát quan trai giới. Nên dâng thức ăn theo thẻ.” v.v... (VinA. iii, 631).

[2] Ngài Buddhaghosa giải thích là bà Visākhā có 10 ngưi con trai và 10 người con gái. Mỗi người con trai hoặc gái có 20 người con. Tổng cộng bà có hơn 420 người con cháu (VinA. iii, 631).

[3] Hai từ abhisametāvinī và viññātasāsanā được ghi nghĩa theo lời giải thích của ngài Buddhaghosa (Vin.A. iii, 632).

[4] Động từ dhāreti có nghĩa chính là “mang, mặc, v.v...” nhưng để phù hợp với ngữ cảnh từ dịch Việt đã được biến đổi ít nhiều như là “cất giữ, sử dụng, v.v...”

[5] Nissaggiya pācittiya có hai phần: nissaggiya liên quan đến đồ vật cần được xả bỏ, pācittiya là tội ưng đối trị.

[6] Tám tiêu đề (mātikā) về sự hết hiệu lực của Kaṭhina: do sự ra đi, do (y) được hoàn tất, do tự mình quyết định, do bị mất, do nghe được (tin), do sự tan vỡ của niềm mong mỏi, do sự vượt qua ranh giới, do sự hết hiệu lực cùng một lúc (Mahāvagga - Đại Phẩm, TTPV tập 5, chương VII, trang 116).

[7] Hội chúng thực hiện hành sự thâu hồi khiến Kaṭhina hết hiệu lực (ND).

[8] Sáu loại y: “Này các tỳ khưu, ta cho phép sáu loại y: loại bằng sợi lanh, loại bằng bông vải, loại bằng tơ lụa, loại bằng sợi len, loại bằng gai thô, loại bằng chỉ bố” (Mahāvagga - Đại Phẩm, TTPV tập 5, chương VII, trang 183).

[9] Chú nguyện để dùng chung: “Này các tỳ khưu, Ta cho phép chú nguyn đ dùng chung y (có kích thước) tối thiểu với chiều dài là tám ngón tay với chiều rộng là bốn ngón tay theo ngón tay tiêu chuẩn” (Mahāvagga - Đại Phẩm, TTPV tập 5, chương VIII, trang 213).

[10] santaruttara = sa+antara+uttara = sa+antaravāsaka+uttarasaṅga = với+y nội+thượng y (y vai trái).

[11] Ngài Buddhaghosa giải thích là 1 hatthapāsa (tầm tay) = 2,5 ratana (VinA. iii, 652), và 1 ratana = 2 vidatthiyo (gang tay), 1 vidatthi = 12 lần bề rộng của ngón tay (VibhA. 343). Tài liệu The Buddhist Monastic Code của Thanissaro Bhikkhu cho biết = 1 hatthapāsa = 1,25 mét.

[12] Ngài Buddhaghosa giải thích 1 abbhantara là 28 hattha (cánh tay) (VinA. iii, 654). Từ điển của Childers giải thích hattha là chiều dài tính từ cùi chỏ của cánh tay đến đầu ngón tay út. Tài liệu The Buddhist Monastic Code của Thanissaro Bhikkhu cho biết khoảng cách của 7 abbhantara = 98 mét (Như vậy 1 abbhantara = 14 mét, 1 hattha = 0,5 mét).

[13] Tức là vòng tròn bán kính 7 abbhantara (= 98 mét), lấy chỗ đ y làm tâm điểm (ND).

[14] Vải quăng bỏ (paṃsukūla) được phát sanh lên do nhiều cách thức. Một trong những cách thức đã được các tỳ khưu thời ấy áp dụng là đi vào m địa nhặt lấy các vải quấn tử thi đem về giặt sạch, cắt may thành y, nhuộm màu, v.v... (ND).

[15] Ngài Buddhaghosa giải thích “từ vật sở hữu của bản thân” là phát sanh lên do bông vải, chỉ sợi, v.v... của bản thân (VinA. iii, 659).

[16] Ngài Buddhaghosa giải thích như sau: “Nếu y căn bản là mịn và y mong mỏi là thô không thể kết hợp với nhau, và còn lại nhiều đêm nhưng vn không đ cho đến hết tháng thì không nên cho thực hiện y trái với ước muốn, lại còn bị sự chê bai nữa. Nên chờ cho đến khi nhận lãnh y mong mỏi khác nữa rồi cho thực hiện trong khoảng thời gian (cho phép). Cũng nên chú nguyện y mong mỏi làm vải phụ tùng (parikkhāracoḷaṃ). Nếu y căn bản là thô và y mong mỏi là mịn thì nên chú nguyện y căn bản làm vải phụ tùng, rồi lấy y mong mỏi làm y căn bản, và giữ lại. Bằng phương thức này thì đt được lại cả tháng ấy để giữ lại y” (VinA. iii, 659). Có thể hiểu lời giải thích trên như sau: Trong vòng hai mươi ngày đầu tính từ lúc y căn bn được phát sanh, nếu y mong mỏi được phát sanh thì số ngày để giữ y căn bản không còn đ ba mươi ngày (mà chỉ còn mười ngày, phù hợp với thời gian cất giữ của y mới được phát sanh chỉ được tối đa là mưi ngày). Như vậy, hoặc là hy vọng trong mười ngày còn lại sẽ có thêm y mong mỏi khác cùng loại, hoặc là chú nguyện y mong mỏi thành vải phụ tùng đ y căn bản có thể tiếp tục giữ đưc đ ba mươi ngày. Trường hợp y mong mỏi là tốt hơn thì có thể lấy y mong mỏi mới phát sanh làm y căn bản và nguyện y căn bản làm vải phụ tùng, như thế sẽ đưc tính đ ba mươi ngày.

[17] Ngoài ba y như các t khưu là y hai lớp (saṅghāṭi), thượng y (uttarasagaṃ), và y nội (antaravāsaka), tỳ khưu ni còn có thêm hai y nữa là áo lót (saṃkaccikaṃ) và vải choàng tắm (udakasāṭikaṃ). Xin xem Cullavagga - Tiểu Phẩm, TTPV tập 7, chương X, trang 515.

[18] Ito: nghĩa là “từ đây” ám chỉ vải đang được mặc trên người ấy. Theo câu chuyện, được biết người ấy đang mặc hai tấm vải nên ghi lại như trên (ND).



Phiên bản thư viện demo v4.5 [Tipiṭaka Tiếng Việt] Theravada