Lúc bấy giờ, đức Phật Thế Tôn ngự tại Vesālī, Mahāvana, giảng đường Kūṭāgāra. Vào lúc bấy giờ, nhiều vị tỳ khưu đồng quan điểm, thân thiết đã vào mùa (an cư) mưa ở bờ sông Vaggumudā. Vào lúc bấy giờ, xứ Vajjī có sự khan hiếm về vật thực, khó kiếm ăn, có dịch bệnh, thẻ vật thực được phân phối, không dễ sinh sống bằng sự ra sức khất thực.
Khi ấy, các vị tỳ khưu ấy đã khởi ý rằng: “Hiện nay, xứ Vajjī có sự khan hiếm về vật thực, khó kiếm ăn, có dịch bệnh, thẻ vật thực được phân phối, không dễ sinh sống bằng sự ra sức khất thực. Còn chúng ta có sự hòa hợp, thân thiện, không cãi cọ nhau, vậy bằng phương thức nào chúng ta có thể sống mùa (an cư) mưa một cách thoải mái và không bị khó nhọc vì đồ ăn khất thực?”
Một số vị đã nói như vầy: - “Này các đại đức, chúng ta hãy quyết định làm công cho các người tại gia đi; như thế họ sẽ nghĩ đến mà bố thí cho chúng ta. Như thế chúng ta có sự hòa hợp, thân thiện, không cãi cọ nhau sẽ sống mùa (an cư) mưa một cách thoải mái và sẽ không bị khó nhọc vì đồ ăn khất thực.
Một số vị đã nói như vầy: - “Này các đại đức, thôi đi! Việc gì lại quyết định làm công cho các người tại gia? Này các đại đức, chúng ta hãy đưa tin tức cho các người tại gia đi; như thế họ sẽ nghĩ đến mà bố thí cho chúng ta. Như thế chúng ta có sự hòa hợp, thân thiện, không cãi cọ nhau sẽ sống mùa (an cư) mưa một cách thoải mái và sẽ không bị khó nhọc vì đồ ăn khất thực.
Một số vị đã nói như vầy: - “Này các đại đức, thôi đi! Việc gì lại quyết định làm công cho các người tại gia? Việc gì lại đưa tin tức cho các người tại gia? Này các đại đức, chúng ta hãy nói lời ca ngợi lẫn nhau về pháp thượng nhân đến các người tại gia rằng: ‘Vị tỳ khưu như vầy đạt sơ thiền, vị tỳ khưu như vầy đạt nhị thiền, vị tỳ khưu như vầy đạt tam thiền, vị tỳ khưu như vầy đạt tứ thiền, vị tỳ khưu như vầy là vị Nhập Lưu, vị tỳ khưu như vầy là vị Nhất Lai, vị tỳ khưu như vầy là vị Bất Lai, vị tỳ khưu như vầy là vị A-la-hán, vị tỳ khưu như vầy có ba Minh, vị tỳ khưu như vầy có sáu Thắng Trí;’ như thế họ sẽ nghĩ đến mà bố thí cho chúng ta. Như thế chúng ta có sự hòa hợp, thân thiện, không cãi cọ nhau sẽ sống mùa (an cư) mưa một cách thoải mái và sẽ không bị khó nhọc vì đồ ăn khất thực.” - “Này các đại đức, chính điều này là tốt hơn hết tức là việc chúng ta nói lời ca ngợi lẫn nhau về pháp thượng nhân đến các người tại gia.”
Sau đó, các tỳ khưu ấy đã nói lời ca ngợi lẫn nhau về pháp thượng nhân đến các người tại gia rằng: - “Vị tỳ khưu như vầy đạt sơ thiền, ―(như trên)― vị tỳ khưu như vầy có sáu Thắng Trí.”
Khi ấy, những người dân ấy (nghĩ rằng): “Quả thật điều lợi ích đã có cho chúng ta! Quả thật chúng ta đã đạt được điều tốt! Chúng ta có được các tỳ khưu như vầy trong số các tỳ khưu có giới có thiện pháp vào mùa (an cư) mưa! Quả thật từ trước đến nay chúng ta không có các tỳ khưu như vầy vào mùa (an cư) mưa!” Họ dâng đến các tỳ khưu những vật thực loại mềm mà họ không ăn bởi chính mình, không dâng đến cha mẹ, không cho đến vợ con, không cho đến các tôi tớ và người làm công, không cho đến bạn bè và các quan lại, không cho đến các thân quyến cùng huyết thống. Họ dâng đến các tỳ khưu những vật thực loại cứng ―(như trên)― những thức nếm ―(như trên)― những thức uống mà họ không uống bởi chính mình, không dâng đến cha mẹ, không cho đến vợ con, không cho đến các tôi tớ và người làm công, không cho đến bạn bè và các quan lại, không cho đến các thân quyến cùng huyết thống. Sau đó, các vị tỳ khưu ấy đã có sắc tướng, căn quyền sung mãn, sắc diện rạng rỡ, sắc thân an tịnh.
Điều này đã là thông lệ cho các tỳ khưu trải qua mùa (an cư) mưa là đi đến diện kiến đức Thế Tôn. Khi ấy, các vị tỳ khưu ấy trải qua ba tháng mùa (an cư) mưa đã thu xếp chỗ trú ngụ, cầm y bát, ra đi về phía Vesālī. Theo tuần tự các vị đã đi đến thành Vesālī, Mahāvana, giảng đường Kūṭāgāra gặp đức Thế Tôn, sau khi đến đã đảnh lễ đức Thế Tôn rồi ngồi xuống ở một bên.
Vào lúc bấy giờ, các vị tỳ khưu đã sống qua mùa (an cư) mưa ở các phương thì ốm o, cằn cỗi, xuống sắc, có vẻ xanh xao, thân hình nổi đầy gân; trái lại các tỳ khưu ở bờ sông Vaggumudā thì có sắc tướng, căn quyền sung mãn, sắc diện rạng rỡ, sắc thân an tịnh. Điều này đã là thông lệ của chư Phật Thế Tôn là niềm nở đối với các tỳ khưu đi đến.
Khi ấy, đức Thế Tôn đã nói với các vị tỳ khưu ở bờ sông Vaggumudā điều này: - “Này các tỳ khưu, sức khoẻ có khá không? Mọi việc có được tốt đẹp không? Các ngươi có sự hòa hợp, thân thiện, không cãi cọ nhau, chắc hẳn đã sống qua mùa (an cư) mưa được thoải mái, và không bị khó nhọc vì đồ ăn khất thực?” - “Bạch Thế Tôn, sức khoẻ khá. Bạch Thế Tôn, mọi việc đều tốt đẹp. Và bạch ngài, chúng con có sự hòa hợp, thân thiện, không cãi cọ nhau đã sống qua mùa (an cư) mưa được thoải mái, và không bị khó nhọc vì đồ ăn khất thực.” Các đấng Như Lai dầu biết vẫn hỏi, dầu biết các vị vẫn không hỏi, biết đúng thời các vị mới hỏi, biết đúng thời các vị vẫn không hỏi. Các đấng Như lai hỏi có liên quan đến lợi ích và không (hỏi việc) không có liên quan đến lợi ích, khi không có liên quan đến lợi ích các đấng Như Lai có cách để cắt đứt vấn đề.
Chư Phật Thế Tôn hỏi các tỳ khưu bởi hai lý do: “Chúng ta sẽ thuyết Pháp hoặc sẽ quy định điều học cho các đệ tử.” Khi ấy, đức Thế Tôn đã nói với các tỳ khưu ở bờ sông Vaggumudā điều này: - “Này các tỳ khưu, các ngươi có sự hòa hợp, thân thiện, không cãi cọ nhau, đã sống mùa (an cư) mưa được thoải mái và không bị khó nhọc vì đồ ăn khất thực như thế nào?” Khi ấy, các tỳ khưu ấy đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn. - “Này các tỳ khưu, các ngươi có thực chứng không?” - “Bạch Thế Tôn, không thực chứng.” Đức Phật Thế Tôn đã khiển trách rằng: - “Này những kẻ rồ dại, thật không đúng đắn, không hợp lẽ, không tốt đẹp, không xứng pháp Sa-môn, không được phép, không nên làm! Này những kẻ rồ dại, tại sao các ngươi vì lý do bao tử lại nói lời ca ngợi lẫn nhau về pháp thượng nhân đến các người tại gia? Này những kẻ rồ dại, thà các ngươi bị mổ banh bụng bởi dao giết trâu sắc bén còn là điều cao thượng, chớ vì lý do bao tử mà nói lời ca ngợi lẫn nhau về pháp thượng nhân đến các người tại gia là không (cao thượng). Điều ấy có lý do như thế nào? Này những kẻ rồ dại, bởi vì do nguyên nhân kia[5] các ngươi có thể đi đến cái chết hoặc khổ gần như chết, nhưng không vì nguyên nhân kia, khi tan rã thân xác và chết đi, các ngươi lại có thể bị sanh vào bất hạnh, cõi khổ, đọa xứ, địa ngục. Này những kẻ rồ dại, quả thật do nguyên nhân này,[6] khi tan rã thân xác và chết đi, các ngươi có thể bị sanh vào bất hạnh, cõi khổ, đọa xứ, địa ngục. Này những kẻ rồ dại, sự việc này không đem lại niềm tin cho những kẻ chưa có đức tin ―(như trên)― Sau khi khiển trách, ngài đã nói Pháp thoại rồi bảo các tỳ khưu rằng:
- “Này các tỳ khưu, đây là năm kẻ cướp lớn được biết đến ở thế gian? Thế nào là năm?
(1) Này các tỳ khưu, ở đây có kẻ cướp lớn khởi ý như vầy: ‘Đến khi nào được tháp tùng bởi một trăm hay một ngàn, ta sẽ vừa đi quanh làng mạc phố thị kinh thành vừa giết vừa ra lệnh giết, vừa chém vừa ra lệnh chém, vừa hành hạ vừa ra lệnh hành hạ.’ Một thời gian sau, được tháp tùng bởi một trăm hay một ngàn, kẻ ấy vừa đi quanh làng mạc phố thị kinh thành vừa giết vừa ra lệnh giết, vừa chém vừa ra lệnh chém, vừa hành hạ vừa ra lệnh hành hạ. Này các tỳ khưu, tương tợ như thế, ở đây có hạng ác tỳ khưu khởi ý như vầy: ‘Đến khi nào được tùy tùng bởi một trăm hay một ngàn, ta sẽ đi quanh làng mạc phố thị kinh thành và được tiếp rước, được cung kính, được nể sợ, được cúng dường, được tôn trọng, và có được lợi lộc về các vật dụng là y phục, vật thực, chỗ trú ngụ, và thuốc men chữa bệnh của các gia chủ và các bậc xuất gia.’ Một thời gian sau, được tùy tùng bởi một trăm hay một ngàn, vị ấy đi quanh làng mạc phố thị kinh thành và được tiếp rước, được cung kính, được nể sợ, được cúng dường, được tôn trọng, và có được lợi lộc về các vật dụng là y phục, vật thực, chỗ trú ngụ, và thuốc men chữa bệnh của các gia chủ và các bậc xuất gia. Này các tỳ khưu, đây là kẻ cướp lớn thứ nhất được biết đến ở thế gian.
(2) Này các tỳ khưu, hơn nữa ở đây có hạng ác tỳ khưu sau khi đã học tập Pháp và Luật được công bố bởi Như Lai lại xem là của chính bản thân. Này các tỳ khưu, đây là kẻ cướp lớn thứ nhì được biết đến ở thế gian.
(3) Này các tỳ khưu, hơn nữa ở đây có hạng ác tỳ khưu bôi nhọ vị trong sạch, có Phạm hạnh, đang thực hành Phạm hạnh thanh tịnh bằng điều phi Phạm hạnh không có nguyên cớ. Này các tỳ khưu, đây là kẻ cướp lớn thứ ba được biết đến ở thế gian.
(4) Này các tỳ khưu, hơn nữa ở đây có hạng ác tỳ khưu chiêu dụ mua chuộc các người tại gia bằng các trọng vật là các vật dụng chủ yếu của hội chúng như là tu viện, vùng đất của tu viện, trú xá, vùng đất của trú xá, gường, ghế, nệm, gối, chum đồng, chậu đồng, hũ đồng, vại đồng, rìu, búa, cuốc, xẻng, lưỡi đục, dây leo, tre, cỏ muñja, cỏ pabbaja, cỏ tiṇa, đất sét, đồ gỗ, đồ gốm. Này các tỳ khưu, đây là kẻ cướp lớn thứ tư được biết đến ở thế gian.
(5) Này các tỳ khưu, trong thế gian bao gồm cõi chư Thiên, cõi Ma Vương, cõi Phạm Thiên, cho đến dòng dõi Sa-môn, Bà-la-môn, chư Thiên, và loài người, kẻ cướp lớn đứng hàng đầu là kẻ khoác lác về pháp thượng nhân không có không thực chứng. Điều ấy có lý do thế nào? Này các tỳ khưu, các ngươi đã ăn thức ăn của xứ sở theo lối trộm cướp.
Vị tuyên bố thế này, bản thân như thế khác,
ăn cơm kiểu dối lường, như cờ gian bạc lận.
Nhiều kẻ cổ quấn y, ác pháp, không thu thúc,
kẻ ác vì nghiệp ác, phải sanh vào địa ngục.[7]
Kẻ ác giới buông lung thà ăn vào sắt cục,
cháy đỏ có lửa ngọn, hơn đồ ăn xứ sở.”[8]
Khi ấy, đức Thế Tôn đã khiển trách các tỳ khưu ở bờ sông Vaggumudā bằng nhiều phương thức về sự khó khăn trong việc cấp dưỡng ―(như trên)― Và này các tỳ khưu, các ngươi nên phổ biến điều học này như vầy:
“Vị tỳ khưu nào trong khi chưa biết rõ về pháp thượng nhân, là pháp thể nhập của bản thân, là pháp thuộc về trí tuệ và sự thấy biết xứng đáng bậc Thánh, lại tuyên bố rằng: ‘Tôi biết như vầy, tôi thấy như vầy.’ Sau đó vào lúc khác, trong khi được hỏi hay trong khi không được hỏi, vị đã phạm tội có ước muốn được trong sạch lại nói như vầy: ‘Này các đại đức, tôi đã không biết như vầy lại nói biết, đã không thấy lại nói thấy, tôi đã nói điều phù phiếm, điều dối trá;’ vị ấy cũng là vị phạm tội pārājika, không được cộng trú.”
Và điều học này đã được đức Thế Tôn quy định cho các tỳ khưu như thế.
[Sự quy định căn bản]
Vào lúc bấy giờ, có nhiều vị tỳ khưu trong khi không thấy tưởng là đã thấy, trong khi không đạt tưởng là đã đạt, trong khi không đắc chứng tưởng là đã đắc chứng, trong khi không chứng ngộ tưởng là đã chứng ngộ, đã nói một cách thái quá về trí giải thoát. Một thời gian sau, các vị lại có tâm thiên về tham ái, lại có tâm lại thiên về sân hận, lại có tâm lại thiên về si mê. Các vị ấy đã có nỗi nghi hoặc rằng: “Điều học đã được đức Thế Tôn quy định; và chúng ta trong khi không thấy tưởng là đã thấy, trong khi không đạt tưởng là đã đạt, trong khi không đắc chứng tưởng là đã đắc chứng, trong khi không chứng ngộ tưởng là đã chứng ngộ, đã nói một cách thái quá về trí giải thoát, phải chăng chúng ta đã phạm tội pārājika?” Các vị ấy đã kể lại sự việc ấy cho đại đức Ānanda. Đại đức Ānanda đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn.
“Này Ānanda, có các vị tỳ khưu trong khi không thấy tưởng là đã thấy, trong khi không đạt tưởng là đã đạt, trong khi không đắc chứng tưởng là đã đắc chứng, trong khi không chứng ngộ tưởng là đã chứng ngộ, đã nói với sự tự tin thái quá về trí giải thoát; điều ấy vốn không thuộc về trường hợp này. Và này các tỳ khưu, các ngươi nên phổ biến điều học này như vầy:
“Vị tỳ khưu nào trong khi chưa biết rõ về pháp thượng nhân, là pháp thể nhập của bản thân, là pháp thuộc về trí tuệ và sự thấy biết xứng đáng bậc Thánh, lại tuyên bố rằng: ‘Tôi biết như vầy, tôi thấy như vầy.’ Sau đó vào lúc khác, trong khi được hỏi hay trong khi không được hỏi, vị đã phạm tội có ước muốn được trong sạch lại nói như vầy: ‘Này các đại đức, tôi đã không biết như vầy lại nói biết, đã không thấy lại nói thấy, tôi đã nói điều phù phiếm, điều dối trá,’ ngoại trừ vì sự tự tin thái quá; vị này cũng là vị phạm tội pārājika, không được cộng trú.”
[Sự quy định lần hai]
Vị nào: là bất cứ vị nào ―(như trên)―
Tỳ khưu ―(như trên)― [đã được tu lên bậc trên ... bằng hành sự có lời thông báo đến lần thứ tư]. Vị này là ‘vị tỳ khưu’ được đề cập trong ý nghĩa này.
Trong khi chưa biết rõ: là không có, không thực chứng, trong khi không tự biết, trong khi không hiểu, trong khi không thấy thiện pháp ở nơi mình (lại nói): “Tôi có thiện pháp.”
Pháp thượng nhân nghĩa là thiền, sự giải thoát, định, sự chứng đạt, trí tuệ và sự thấy biết, sự tu tập về Đạo, sự chứng ngộ về Quả, sự dứt bỏ phiền não, sự không còn bị che lấp của tâm, sự thỏa thích ở nơi thanh vắng.
Là pháp thể nhập của bản thân: hoặc là thể nhập các thiện pháp ấy vào bản thân, hoặc là thể nhập bản thân vào các thiện pháp ấy.
Trí tuệ: là ba Minh.
Thấy biết: điều gì là trí tuệ điều ấy là sự thấy biết. Điều gì là sự thấy biết điều ấy là trí tuệ.
Tuyên bố: vị nói ra đến người nữ, hoặc đến người nam, hoặc đến người tại gia, hoặc đến vị xuất gia.
Tôi biết như vầy, tôi thấy như vầy: Tôi biết các pháp này, tôi thấy các pháp này, các pháp này có ở tôi, các pháp này được thuần thục ở tôi, và tôi thuần thục trong các pháp này.
Sau đó vào lúc khác: được thực hiện trong giây phút nào, thì đã trải qua giây phút ấy, khoảng thời gian ấy, thời điểm ấy.
Trong khi được hỏi: Sự việc gì đã cho biết thì đang được hỏi về việc ấy: “Điều gì đã được đại đức đắc chứng? Được đại đức đắc chứng như thế nào? Được đại đức đắc chứng vào lúc nào? Được đại đức đắc chứng ở đâu? Các phiền não nào đã được đại đức dứt bỏ? Đại đức đã đạt được các pháp nào?”
Trong khi không được hỏi: không được bất cứ ai đề cập đến.
Vị đã phạm tội: vị có ước muốn xấu xa, bị thúc giục bởi ước muốn, rồi khoác lác về pháp thượng nhân không có không thực chứng thì phạm tội pārājika.
Có ước muốn được trong sạch: hoặc là có ước muốn trở thành người gia chủ, hoặc là có ước muốn trở thành nam cư sĩ, hoặc là có ước muốn trở thành người phụ việc cho tu viện, hoặc là có ước muốn trở thành vị sa di.
Này các đại đức, tôi đã không biết như vầy lại nói biết, đã không thấy lại nói thấy: Tôi không biết các pháp này, tôi không thấy các pháp này, các pháp này có ở tôi, các pháp này được thuần thục ở tôi, và tôi thuần thục trong các pháp này.
Tôi đã nói điều phù phiếm, điều dối trá: Điều phù phiếm đã được tôi nói ra, điều dối trá đã được tôi nói ra, điều không thực đã được tôi nói ra, trong lúc tôi không biết tôi lại nói ra.
Ngoại trừ vì sự tự tin thái quá: trừ ra sự tự tin thái quá.
Vị này cũng: được đề cập liên quan đến các vị trước đây.
Là vị phạm tội pārājika: cũng giống như cây thốt nốt bị chặt ở ngọn không thể tăng trưởng được nữa, tương tợ như thế vị tỳ khưu có ước muốn xấu xa, bị thúc giục bởi ước muốn, khi đã khoác lác về pháp thượng nhân không có không thực chứng, thì không phải là Sa-môn, không phải là Thích tử; vì thế, được gọi là ‘vị phạm tội pārājika.’
Không được cộng trú: cộng trú nghĩa là có chung hành sự, có chung việc đọc tụng (giới bổn Pātimokkha), có sự học tập giống nhau, điều ấy gọi là cộng trú. Vị ấy không có được điều ấy, vì thế được gọi là ‘không được cộng trú.’
Pháp thượng nhân nghĩa là thiền, sự giải thoát, định, sự chứng đạt, trí tuệ và sự thấy biết, sự tu tập về Đạo, sự chứng ngộ về Quả, sự dứt bỏ phiền não, sự không còn bị che lấp của tâm, sự thỏa thích ở nơi thanh vắng.
Thiền: là sơ thiền, nhị thiền, tam thiền, tứ thiền.
Sự giải thoát: là vô phiền não giải thoát, vô tướng giải thoát, vô nguyện giải thoát.[9]
Định: là vô phiền não định, vô tướng định, vô nguyện định.
Sự chứng đạt: là sự chứng đạt về vô phiền não, sự chứng đạt về vô tướng, sự chứng đạt về vô nguyện.
Trí tuệ: là ba Minh.
Sự tu tập về Đạo: là bốn sự thiết lập niệm, bốn chánh cần, bốn nền tảng của thần thông, năm quyền, năm lực, bảy giác chi, Thánh Đạo tám chi phần.
Sự chứng ngộ về Quả: là sự chứng ngộ quả Nhập Lưu, sự chứng ngộ quả Nhất Lai, sự chứng ngộ quả Bất Lai, sự chứng ngộ quả vị A-la-hán.
Sự dứt bỏ phiền não: là sự dứt bỏ tham ái, sự dứt bỏ sân, sự dứt bỏ si.
Sự không còn bị che lấp của tâm: nghĩa là tâm không còn bị che lấp bởi tham ái, tâm không còn bị che lấp bởi sân, tâm không còn bị che lấp bởi si.
Sự thỏa thích ở nơi thanh vắng: là sự thỏa thích ở nơi thanh vắng với sơ thiền, sự thỏa thích ở nơi thanh vắng với nhị thiền, sự thỏa thích ở nơi thanh vắng với tam thiền, sự thỏa thích ở nơi thanh vắng với tứ thiền.
*****
Với ba yếu tố, vị cố tình nói điều dối trá: “Tôi đã chứng sơ thiền” bị phạm tội pārājika: Trước đó, vị ấy khởi ý rằng: ‘Ta sẽ nói điều dối trá,’ trong khi nói (biết rằng): ‘Ta đang nói điều dối trá,’ đã nói xong (biết rằng): ‘Điều dối trá đã được ta nói.’
Với bốn yếu tố, vị cố tình nói điều dối trá: “Tôi đã chứng sơ thiền” bị phạm tội pārājika: Trước đó, vị ấy khởi ý rằng: ‘Ta sẽ nói điều dối trá,’ trong khi nói (biết rằng): ‘Ta đang nói điều dối trá,’ đã nói xong (biết rằng): ‘Điều dối trá đã được ta nói,’ đã che giấu quan điểm.
Với năm yếu tố, vị cố tình nói điều dối trá: “Tôi đã chứng sơ thiền” bị phạm tội pārājika: Trước đó, vị ấy khởi ý rằng: ‘Ta sẽ nói điều dối trá,’ trong khi nói (biết rằng): ‘Ta đang nói điều dối trá,’ đã nói xong (biết rằng): ‘Điều dối trá đã được ta nói,’ đã che giấu quan điểm, đã che giấu điều mong mỏi.
Với sáu yếu tố, vị cố tình nói điều dối trá: “Tôi đã chứng sơ thiền” bị phạm tội pārājika: Trước đó, vị ấy khởi ý rằng: ‘Ta sẽ nói điều dối trá,’ trong khi nói (biết rằng): ‘Ta đang nói điều dối trá,’ đã nói xong (biết rằng): ‘Điều dối trá đã được ta nói,’ đã che giấu quan điểm, đã che giấu điều mong mỏi, đã che giấu điều khao khát.
Với bảy yếu tố, vị cố tình nói điều dối trá: “Tôi đã chứng sơ thiền” bị phạm tội pārājika: Trước đó, vị ấy khởi ý rằng: ‘Ta sẽ nói điều dối trá,’ trong khi nói (biết rằng): ‘Ta đang nói điều dối trá,’ đã nói xong (biết rằng): ‘Điều dối trá đã được ta nói,’ đã che giấu quan điểm, đã che giấu điều mong mỏi, đã che giấu điều khao khát, đã che giấu ý định.
Với ba yếu tố, vị cố tình nói điều dối trá: “Tôi chứng sơ thiền” bị phạm tội pārājika: Trước đó, vị ấy khởi ý rằng: ‘Ta sẽ nói điều dối trá,’ trong khi nói (biết rằng): ‘Ta đang nói điều dối trá,’ đã nói xong (biết rằng): ‘Điều dối trá đã được ta nói.’
Với bốn yếu tố, vị cố tình nói điều dối trá: “Tôi chứng sơ thiền” bị phạm tội pārājika: Trước đó, vị ấy khởi ý rằng: ‘Ta sẽ nói điều dối trá,’ trong khi nói (biết rằng): ‘Ta đang nói điều dối trá,’ đã nói xong (biết rằng): ‘Điều dối trá đã được ta nói,’ đã che giấu quan điểm.
Với năm yếu tố, vị cố tình nói điều dối trá: “Tôi chứng sơ thiền” bị phạm tội pārājika: Trước đó, vị ấy khởi ý rằng: ‘Ta sẽ nói điều dối trá,’ trong khi nói (biết rằng): ‘Ta đang nói điều dối trá,’ đã nói xong (biết rằng): ‘Điều dối trá đã được ta nói,’ đã che giấu quan điểm, đã che giấu điều mong mỏi.
Với sáu yếu tố, vị cố tình nói điều dối trá: “Tôi chứng sơ thiền” bị phạm tội pārājika: Trước đó, vị ấy khởi ý rằng: ‘Ta sẽ nói điều dối trá,’ trong khi nói (biết rằng): ‘Ta đang nói điều dối trá,’ đã nói xong (biết rằng): ‘Điều dối trá đã được ta nói,’ đã che giấu quan điểm, đã che giấu điều mong mỏi, đã che giấu điều khao khát.
Với bảy yếu tố, vị cố tình nói điều dối trá: “Tôi chứng sơ thiền” bị phạm tội pārājika: Trước đó, vị ấy khởi ý rằng: ‘Ta sẽ nói điều dối trá,’ trong khi nói (biết rằng): ‘Ta đang nói điều dối trá,’ đã nói xong (biết rằng): ‘Điều dối trá đã được ta nói,’ đã che giấu quan điểm, đã che giấu điều mong mỏi, đã che giấu điều khao khát, đã che giấu ý định.
Với ba yếu tố, vị cố tình nói điều dối trá: “Tôi đã chứng được sơ thiền” bị phạm tội pārājika: Trước đó, vị ấy khởi ý rằng: ‘Ta sẽ nói điều dối trá,’ trong khi nói (biết rằng): ‘Ta đang nói điều dối trá,’ đã nói xong (biết rằng): ‘Điều dối trá đã được ta nói.’
Với bốn yếu tố, vị cố tình nói điều dối trá: “Tôi đã chứng được sơ thiền” bị phạm tội pārājika: Trước đó, vị ấy khởi ý rằng: ‘Ta sẽ nói điều dối trá,’ trong khi nói (biết rằng): ‘Ta đang nói điều dối trá,’ đã nói xong (biết rằng): ‘Điều dối trá đã được ta nói,’ đã che giấu quan điểm.
Với năm yếu tố, vị cố tình nói điều dối trá: “Tôi đã chứng được sơ thiền” bị phạm tội pārājika: Trước đó, vị ấy khởi ý rằng: ‘Ta sẽ nói điều dối trá,’ trong khi nói (biết rằng): ‘Ta đang nói điều dối trá,’ đã nói xong (biết rằng): ‘Điều dối trá đã được ta nói,’ đã che giấu quan điểm, đã che giấu điều mong mỏi.
Với sáu yếu tố, vị cố tình nói điều dối trá: “Tôi đã chứng được sơ thiền” bị phạm tội pārājika: Trước đó, vị ấy khởi ý rằng: ‘Ta sẽ nói điều dối trá,’ trong khi nói (biết rằng): ‘Ta đang nói điều dối trá,’ đã nói xong (biết rằng): ‘Điều dối trá đã được ta nói,’ đã che giấu quan điểm, đã che giấu điều mong mỏi, đã che giấu điều khao khát.
Với bảy yếu tố, vị cố tình nói điều dối trá: “Tôi đã chứng được sơ thiền” bị phạm tội pārājika: Trước đó, vị ấy khởi ý rằng: ‘Ta sẽ nói điều dối trá,’ trong khi nói (biết rằng): ‘Ta đang nói điều dối trá,’ đã nói xong (biết rằng): ‘Điều dối trá đã được ta nói,’ đã che giấu quan điểm, đã che giấu điều mong mỏi, đã che giấu điều khao khát, đã che giấu ý định.
Với ba yếu tố, vị cố tình nói điều dối trá: “Tôi có đạt sơ thiền” bị phạm tội pārājika: Trước đó, vị ấy khởi ý rằng: ‘Ta sẽ nói điều dối trá,’ trong khi nói (biết rằng): ‘Ta đang nói điều dối trá,’ đã nói xong (biết rằng): ‘Điều dối trá đã được ta nói.’
Với bốn yếu tố, vị cố tình nói điều dối trá: “Tôi có đạt sơ thiền” bị phạm tội pārājika: Trước đó, vị ấy khởi ý rằng: ‘Ta sẽ nói điều dối trá,’ trong khi nói (biết rằng): ‘Ta đang nói điều dối trá,’ đã nói xong (biết rằng): ‘Điều dối trá đã được ta nói,’ đã che giấu quan điểm.
Với năm yếu tố, vị cố tình nói điều dối trá: “Tôi có đạt sơ thiền” bị phạm tội pārājika: Trước đó, vị ấy khởi ý rằng: ‘Ta sẽ nói điều dối trá,’ trong khi nói (biết rằng): ‘Ta đang nói điều dối trá,’ đã nói xong (biết rằng): ‘Điều dối trá đã được ta nói,’ đã che giấu quan điểm, đã che giấu điều mong mỏi.
Với sáu yếu tố, vị cố tình nói điều dối trá: “Tôi có đạt sơ thiền” bị phạm tội pārājika: Trước đó, vị ấy khởi ý rằng: ‘Ta sẽ nói điều dối trá,’ trong khi nói (biết rằng): ‘Ta đang nói điều dối trá,’ đã nói xong (biết rằng): ‘Điều dối trá đã được ta nói,’ đã che giấu quan điểm, đã che giấu điều mong mỏi, đã che giấu điều khao khát.
Với bảy yếu tố, vị cố tình nói điều dối trá: “Tôi có đạt sơ thiền” bị phạm tội pārājika: Trước đó, vị ấy khởi ý rằng: ‘Ta sẽ nói điều dối trá,’ trong khi nói (biết rằng): ‘Ta đang nói điều dối trá,’ đã nói xong (biết rằng): ‘Điều dối trá đã được ta nói,’ đã che giấu quan điểm, đã che giấu điều mong mỏi, đã che giấu điều khao khát, đã che giấu ý định.
Với ba yếu tố, vị cố tình nói điều dối trá: “Tôi có trú sơ thiền” bị phạm tội pārājika: Trước đó, vị ấy khởi ý rằng: ‘Ta sẽ nói điều dối trá,’ trong khi nói (biết rằng): ‘Ta đang nói điều dối trá,’ đã nói xong (biết rằng): ‘Điều dối trá đã được ta nói.’
Với bốn yếu tố, vị cố tình nói điều dối trá: “Tôi có trú sơ thiền” bị phạm tội pārājika: Trước đó, vị ấy khởi ý rằng: ‘Ta sẽ nói điều dối trá,’ trong khi nói (biết rằng): ‘Ta đang nói điều dối trá,’ đã nói xong (biết rằng): ‘Điều dối trá đã được ta nói,’ đã che giấu quan điểm.
Với năm yếu tố, vị cố tình nói điều dối trá: “Tôi có trú sơ thiền” bị phạm tội pārājika: Trước đó, vị ấy khởi ý rằng: ‘Ta sẽ nói điều dối trá,’ trong khi nói (biết rằng): ‘Ta đang nói điều dối trá,’ đã nói xong (biết rằng): ‘Điều dối trá đã được ta nói,’ đã che giấu quan điểm, đã che giấu điều mong mỏi.
Với sáu yếu tố, vị cố tình nói điều dối trá: “Tôi có trú sơ thiền” bị phạm tội pārājika: Trước đó, vị ấy khởi ý rằng: ‘Ta sẽ nói điều dối trá,’ trong khi nói (biết rằng): ‘Ta đang nói điều dối trá,’ đã nói xong (biết rằng): ‘Điều dối trá đã được ta nói,’ đã che giấu quan điểm, đã che giấu điều mong mỏi, đã che giấu điều khao khát.
Với bảy yếu tố, vị cố tình nói điều dối trá: “Tôi có trú sơ thiền” bị phạm tội pārājika: Trước đó, vị ấy khởi ý rằng: ‘Ta sẽ nói điều dối trá,’ trong khi nói (biết rằng): ‘Ta đang nói điều dối trá,’ đã nói xong (biết rằng): ‘Điều dối trá đã được ta nói,’ đã che giấu quan điểm, đã che giấu điều mong mỏi, đã che giấu điều khao khát, đã che giấu ý định.
Với ba yếu tố, vị cố tình nói điều dối trá: “Tôi đã chứng ngộ sơ thiền” bị phạm tội pārājika: Trước đó, vị ấy khởi ý rằng: ‘Ta sẽ nói điều dối trá,’ trong khi nói (biết rằng): ‘Ta đang nói điều dối trá,’ đã nói xong (biết rằng): ‘Điều dối trá đã được ta nói.’
Với bốn yếu tố, vị cố tình nói điều dối trá: “Tôi đã chứng ngộ sơ thiền” bị phạm tội pārājika: Trước đó, vị ấy khởi ý rằng: ‘Ta sẽ nói điều dối trá,’ trong khi nói (biết rằng): ‘Ta đang nói điều dối trá,’ đã nói xong (biết rằng): ‘Điều dối trá đã được ta nói,’ đã che giấu quan điểm.
Với năm yếu tố, vị cố tình nói điều dối trá: “Tôi đã chứng ngộ sơ thiền” bị phạm tội pārājika: Trước đó, vị ấy khởi ý rằng: ‘Ta sẽ nói điều dối trá,’ trong khi nói (biết rằng): ‘Ta đang nói điều dối trá,’ đã nói xong (biết rằng): ‘Điều dối trá đã được ta nói,’ đã che giấu quan điểm, đã che giấu điều mong mỏi.
Với sáu yếu tố, vị cố tình nói điều dối trá: “Tôi đã chứng ngộ sơ thiền” bị phạm tội pārājika: Trước đó, vị ấy khởi ý rằng: ‘Ta sẽ nói điều dối trá,’ trong khi nói (biết rằng): ‘Ta đang nói điều dối trá,’ đã nói xong (biết rằng): ‘Điều dối trá đã được ta nói,’ đã che giấu quan điểm, đã che giấu điều mong mỏi, đã che giấu điều khao khát.
Với bảy yếu tố, vị cố tình nói điều dối trá: “Tôi đã chứng ngộ sơ thiền” bị phạm tội pārājika: Trước đó, vị ấy khởi ý rằng: ‘Ta sẽ nói điều dối trá,’ trong khi nói (biết rằng): ‘Ta đang nói điều dối trá,’ đã nói xong (biết rằng): ‘Điều dối trá đã được ta nói,’ đã che giấu quan điểm, đã che giấu điều mong mỏi, đã che giấu điều khao khát, đã che giấu ý định.
(Phần sơ thiền này đã được giải chi tiết như thế nào,
toàn bộ nên được giải chi tiết như thế).
Với ba yếu tố, vị cố tình nói điều dối trá: “Tôi đã chứng ... tôi chứng ... Tôi đã chứng được nhị thiền ... tam thiền ... tứ thiền ... Tôi có đạt tứ thiền ... Tôi có trú ... Tôi đã chứng ngộ tứ thiền” bị phạm tội pārājika: Trước đó, vị ấy khởi ý rằng: ‘Ta sẽ nói điều dối trá,’ trong khi nói (biết rằng): ‘Ta đang nói điều dối trá,’ đã nói xong (biết rằng): ‘Điều dối trá đã được ta nói,’ đã che giấu quan điểm, đã che giấu điều mong mỏi, đã che giấu điều khao khát, đã che giấu ý định.
Với ba yếu tố, vị cố tình nói điều dối trá: “Tôi đã chứng ... Tôi chứng ... Tôi đã chứng được vô phiền não giải thoát ... vô tướng giải thoát ... vô nguyện giải thoát ... Tôi có đạt vô nguyện giải thoát ... Tôi có trú ... Tôi đã chứng ngộ vô nguyện giải thoát” bị phạm tội pārājika―(như trên)―
Với ba yếu tố, vị cố tình nói điều dối trá: “Tôi đã chứng ... Tôi chứng ... Tôi đã chứng được vô phiền não định ... vô tướng định ... vô nguyện định ... Tôi có đạt vô nguyện định ... Tôi có trú ... Tôi đã chứng ngộ vô nguyện định” bị phạm tội pārājika ―(như trên)―
Với ba yếu tố, vị cố tình nói điều dối trá: “Tôi đã chứng ... Tôi chứng ... Tôi đã chứng được sự chứng đạt về vô phiền não ... sự chứng đạt về vô tướng ... sự chứng đạt về vô nguyện ... Tôi có đạt sự chứng đạt về vô nguyện ... Tôi có trú ... Tôi đã chứng ngộ sự chứng đạt về vô nguyện” bị phạm tội pārājika ―(như trên)―
Với ba yếu tố, vị cố tình nói điều dối trá: “Tôi đã chứng ... Tôi chứng ... Tôi đã chứng được ba Minh, ... Tôi có đạt ba Minh ... Tôi có trú ... Tôi đã chứng ngộ ba Minh” bị phạm tội pārājika ―(như trên)―
Với ba yếu tố, vị cố tình nói điều dối trá: “Tôi đã chứng ... Tôi chứng ... Tôi đã chứng được bốn sự thiết lập niệm ... bốn chánh cần ... bốn nền tảng của thần thông ... Tôi có đạt bốn nền tảng của thần thông ... Tôi có trú ... Tôi đã chứng ngộ bốn nền tảng của thần thông” bị phạm tội pārājika ―(như trên)―
Với ba yếu tố, vị cố tình nói điều dối trá: “Tôi đã chứng ... Tôi chứng ... Tôi đã chứng được năm quyền ... năm lực ... Tôi có đạt năm lực ... Tôi có trú ... Tôi đã chứng ngộ năm lực” bị phạm tội pārājika ―(như trên)―
Với ba yếu tố, vị cố tình nói điều dối trá: “Tôi đã chứng ... Tôi chứng ... Tôi đã chứng được bảy giác chi ... Tôi có đạt bảy giác chi ... Tôi có trú ... Tôi đã chứng ngộ bảy giác chi” bị phạm tội pārājika ―(như trên)―
Với ba yếu tố, vị cố tình nói điều dối trá: “Tôi đã chứng ... Tôi chứng ... Tôi đã chứng được Thánh Đạo tám chi phần ... Tôi có đạt Thánh Đạo tám chi phần ... Tôi có trú ... Tôi đã chứng ngộ Thánh Đạo tám chi phần” bị phạm tội pārājika ―(như trên)―
Với ba yếu tố, vị cố tình nói điều dối trá: “Tôi đã chứng ... Tôi chứng ... Tôi đã chứng được quả Nhập Lưu ... quả Nhất Lai ... quả Bất Lai ... phẩm vị A-la-hán ... Tôi có đạt phẩm vị A-la-hán ... Tôi có trú ... Tôi đã chứng ngộ phẩm vị A-la-hán” bị phạm tội pārājika ―(như trên)―
Với ba yếu tố, vị cố tình nói điều dối trá: “Tôi đã từ bỏ tham ái, đã quăng bỏ tham ái, đã thoát khỏi tham ái, đã dứt bỏ tham ái, đã xa rời tham ái, đã khai trừ tham ái, đã đoạn trừ tham ái” bị phạm tội pārājika ―(như trên)―
Với ba yếu tố, vị cố tình nói điều dối trá: “Tôi đã từ bỏ sân, đã quăng bỏ sân, đã thoát khỏi sân, đã dứt bỏ sân, đã xa rời sân, đã khai trừ sân, đã đoạn trừ sân” bị phạm tội pārājika―(như trên)―
Với ba yếu tố, vị cố tình nói điều dối trá: “Tôi đã từ bỏ si, đã quăng bỏ si, đã thoát khỏi si, đã dứt bỏ si, đã xa rời si, đã khai trừ si, đã đoạn trừ si” bị phạm tội pārājika ―(như trên)―
Với ba yếu tố, vị cố tình nói điều dối trá: “Tâm của tôi không bị che lấp bởi tham ái” bị phạm tội pārājika ―(như trên)―
Với ba yếu tố, vị cố tình nói điều dối trá: “Tâm của tôi không bị che lấp bởi sân” bị phạm tội pārājika ―(như trên)―
Với ba yếu tố, vị cố tình nói điều dối trá: “Tâm của tôi không bị che lấp bởi si” bị phạm tội pārājika: Trước đó, vị ấy khởi ý rằng: ‘Ta sẽ nói điều dối trá,’ trong khi nói (biết rằng): ‘Ta đang nói điều dối trá,’ đã nói xong (biết rằng): ‘Điều dối trá đã được ta nói.’
Với bốn yếu tố ―(như trên)― Với năm yếu tố ―(như trên)― Với sáu yếu tố ―(như trên)― Với bảy yếu tố, vị cố tình nói điều dối trá: “Tâm của tôi không bị che lấp bởi si” bị phạm tội pārājika: Trước đó, vị ấy khởi ý rằng: ‘Ta sẽ nói điều dối trá,’ trong khi nói (biết rằng): ‘Ta đang nói điều dối trá,’ đã nói xong (biết rằng): ‘Điều dối trá đã được ta nói,’ đã che giấu quan điểm, đã che giấu điều mong mỏi, đã che giấu điều khao khát, đã che giấu ý định.
Dứt phần đơn giản.
*****
Với ba yếu tố, vị cố tình nói điều dối trá: “Tôi đã chứng ... Tôi chứng ... Tôi đã chứng được sơ thiền và nhị thiền, ... Tôi có đạt sơ thiền và nhị thiền ... Tôi có trú ... Tôi đã chứng ngộ sơ thiền và nhị thiền” bị phạm tội pārājika ―(như trên)―
Với ba yếu tố, vị cố tình nói điều dối trá: “Tôi đã chứng ... Tôi chứng ... Tôi đã chứng được sơ thiền và tam thiền, ... Tôi có đạt sơ thiền và tam thiền ... Tôi có trú ... Tôi đã chứng ngộ sơ thiền và tam thiền” bị phạm tội pārājika ―(như trên)―
Với ba yếu tố, vị cố tình nói điều dối trá: “Tôi đã chứng ... Tôi chứng ... Tôi đã chứng được sơ thiền và tứ thiền, ... Tôi có đạt sơ thiền và tứ thiền ... Tôi có trú ... Tôi đã chứng ngộ sơ thiền và tứ thiền” bị phạm tội pārājika ―(như trên)―
Với ba yếu tố, vị cố tình nói điều dối trá: “Tôi đã chứng ... Tôi chứng ... Tôi đã chứng được sơ thiền và vô phiền não giải thoát ... sơ thiền và vô tướng giải thoát ... sơ thiền và vô nguyện giải thoát ... Tôi có đạt sơ thiền và vô nguyện giải thoát ... Tôi có trú ... Tôi đã chứng ngộ sơ thiền và vô nguyện giải thoát” bị phạm tội pārājika ―(như trên)―
Với ba yếu tố, vị cố tình nói điều dối trá: “Tôi đã chứng ... Tôi chứng ... Tôi đã chứng được sơ thiền và vô phiền não định ... sơ thiền và vô tướng định ... sơ thiền và vô nguyện định ... Tôi có đạt sơ thiền và vô nguyện định ... Tôi có trú ... Tôi đã chứng ngộ sơ thiền và vô nguyện định” bị phạm tội pārājika ―(như trên)―
Với ba yếu tố, vị cố tình nói điều dối trá: “Tôi đã chứng ... Tôi chứng ... Tôi đã chứng được sơ thiền và sự chứng đạt về vô phiền não ... sơ thiền và sự chứng đạt về vô tướng ... sơ thiền và sự chứng đạt về vô nguyện ... Tôi có đạt sơ thiền và sự chứng đạt về vô nguyện ... Tôi có trú ... Tôi đã chứng ngộ sơ thiền và sự chứng đạt về vô nguyện” bị phạm tội pārājika―(như trên)―
Với ba yếu tố, vị cố tình nói điều dối trá: “Tôi đã chứng ... Tôi chứng ... Tôi đã chứng được sơ thiền và ba Minh ... Tôi có đạt sơ thiền và ba Minh ... Tôi có trú ... Tôi đã chứng ngộ sơ thiền và ba Minh” bị phạm tội pārājika ―(như trên)―
Với ba yếu tố, vị cố tình nói điều dối trá: “Tôi đã chứng ... Tôi chứng ... Tôi đã chứng được sơ thiền và bốn sự thiết lập niệm ... sơ thiền và bốn chánh cần ... sơ thiền và bốn nền tảng của thần thông ... Tôi có đạt sơ thiền và bốn nền tảng của thần thông ... Tôi có trú ... Tôi đã chứng ngộ sơ thiền và bốn nền tảng của thần thông” bị phạm tội pārājika ―(như trên)―
Với ba yếu tố, vị cố tình nói điều dối trá: “Tôi đã chứng ... Tôi chứng ... Tôi đã chứng được sơ thiền và năm quyền ... sơ thiền và năm lực ... Tôi có đạt sơ thiền và năm lực ... Tôi có trú ... Tôi đã chứng ngộ sơ thiền và năm lực” bị phạm tội pārājika ―(như trên)―
Với ba yếu tố, vị cố tình nói điều dối trá: “Tôi đã chứng ... Tôi chứng ... Tôi đã chứng được sơ thiền và bảy giác chi ... Tôi có đạt sơ thiền và bảy giác chi ... Tôi có trú ... Tôi đã chứng ngộ sơ thiền và bảy giác chi” bị phạm tội pārājika ―(như trên)―
Với ba yếu tố, vị cố tình nói điều dối trá: “Tôi đã chứng ... Tôi chứng ... Tôi đã chứng được sơ thiền và Thánh Đạo tám chi phần ... Tôi có đạt sơ thiền và Thánh Đạo tám chi phần ... Tôi có trú ... Tôi đã chứng ngộ sơ thiền và Thánh Đạo tám chi phần” bị phạm tội pārājika―(như trên)―
Với ba yếu tố, vị cố tình nói điều dối trá: “Tôi đã chứng ... Tôi chứng ... Tôi đã chứng được sơ thiền và quả Nhập Lưu ... sơ thiền và quả Nhất Lai ... sơ thiền và quả Bất Lai ... sơ thiền và phẩm vị A-la-hán ... Tôi có đạt sơ thiền và phẩm vị A-la-hán ... Tôi có trú ... tôi đã chứng ngộ sơ thiền và phẩm vị A-la-hán” bị phạm tội pārājika ―(như trên)―
Với ba yếu tố, vị cố tình nói điều dối trá: “Tôi đã chứng ... Tôi chứng ... Tôi đã chứng được sơ thiền ... Tôi có đạt sơ thiền ... Tôi có trú ... Tôi đã chứng ngộ sơ thiền ... và tôi đã từ bỏ tham ái ... và tôi đã từ bỏ sân ... và tôi đã từ bỏ, đã quăng bỏ, đã thoát khỏi, đã dứt bỏ, đã xa rời, đã khai trừ, đã đoạn trừ si” bị phạm tội pārājika ―(như trên)―
Với ba yếu tố ... Với bảy yếu tố, vị cố tình nói điều dối trá: “Tôi đã chứng ... Tôi chứng ... Tôi đã chứng được sơ thiền ... Tôi có đạt sơ thiền ... Tôi có trú ... Tôi đã chứng ngộ sơ thiền ... và tâm của tôi không bị che lấp bởi tham ái ... và tâm của tôi không bị che lấp bởi sân ... và tâm của tôi không bị che lấp bởi si” bị phạm tội pārājika: Trước đó, vị ấy khởi ý rằng: ‘Ta sẽ nói điều dối trá,’ trong khi nói (biết rằng): ‘Ta đang nói điều dối trá,’ đã nói xong (biết rằng): ‘Điều dối trá đã được ta nói,’ đã che giấu quan điểm, đã che giấu điều mong mỏi, đã che giấu điều khao khát, đã che giấu ý định.
Dứt sự luân phiên từng phần.
*****
Với ba yếu tố, vị cố tình nói điều dối trá: “Tôi đã chứng ... Tôi chứng ... Tôi đã chứng được nhị thiền và tam thiền ... Tôi có đạt nhị thiền và tam thiền ... Tôi có trú ... Tôi đã chứng ngộ nhị thiền và tam thiền” bị phạm tội pārājika ―(như trên)―
Với ba yếu tố, vị cố tình nói điều dối trá: “Tôi đã chứng ... Tôi chứng ... Tôi đã chứng được nhị thiền và tứ thiền ... Tôi có đạt nhị thiền và tứ thiền ... Tôi có trú ... Tôi đã chứng ngộ nhị thiền và tứ thiền” bị phạm tội pārājika ―(như trên)―
Với ba yếu tố, vị cố tình nói điều dối trá: “Tôi đã chứng ... Tôi chứng ... Tôi đã chứng được nhị thiền và vô phiền não giải thoát ... và vô tướng giải thoát ... và vô nguyện giải thoát ... và vô phiền não định ... và vô tướng định ... và vô nguyện định ... và sự chứng đạt về vô phiền não ... và sự chứng đạt về vô tướng ... và sự chứng đạt về vô nguyện ... và ba Minh ... và bốn sự thiết lập niệm ... và bốn chánh cần ... và bốn nền tảng của thần thông ... và năm quyền ... và năm lực ... và bảy giác chi ... và Thánh Đạo tám chi phần ... và quả Nhập Lưu ... và quả Nhất Lai ... và quả Bất Lai ... và phẩm vị A-la-hán ―(như trên)―Tôi có đạt nhị thiền và phẩm vị A-la-hán ... Tôi có trú ... Tôi đã chứng ngộ nhị thiền và phẩm vị A-la-hán” bị phạm tội pārājika ―(như trên)―
Với ba yếu tố, vị cố tình nói điều dối trá: “Tôi đã chứng ... Tôi chứng ... Tôi đã chứng được nhị thiền ... Tôi có đạt nhị thiền ... Tôi có trú ... Tôi đã chứng ngộ nhị thiền ... và tôi đã từ bỏ tham ái ... và tôi đã từ bỏ sân ... và tôi đã từ bỏ, đã quăng bỏ, đã thoát khỏi, đã dứt bỏ, đã xa rời, đã khai trừ, đã đoạn trừ si, và tâm của tôi không bị che lấp bởi tham ái ... và tâm của tôi không bị che lấp bởi sân ... và tâm của tôi không bị che lấp bởi si” bị phạm tội pārājika ―(như trên)―
Với ba yếu tố ... Với bảy yếu tố, vị cố tình nói điều dối trá: “Tôi đã chứng ... Tôi chứng ... Tôi đã chứng được nhị thiền và sơ thiền ... Tôi có đạt nhị thiền và sơ thiền ... Tôi có trú ... Tôi đã chứng ngộ nhị thiền và sơ thiền” bị phạm tội pārājika ―(như trên)―
Sự luân phiên kết hợp.
Sau khi thực hiện mỗi một nhân tố như thế, sự luân phiên kết hợp nên được tiến hành viên mãn.
****
Điều Pārājika Thứ Tư Phần 2
Với ba yếu tố, vị cố tình nói điều dối trá: “Tôi đã chứng ... Tôi chứng ... Tôi đã chứng được tam thiền và tứ thiền ... ... tam thiền và phẩm vị A-la-hán ... Tôi có đạt tam thiền và phẩm vị A-la-hán ... Tôi có trú ... Tôi đã chứng ngộ tam thiền và phẩm vị A-la-hán” bị phạm tội pārājika ―(như trên)―
Với ba yếu tố, vị cố tình nói điều dối trá: “Tôi đã chứng ... Tôi chứng ... Tôi đã chứng được tam thiền ... Tôi có đạt tam thiền ... Tôi có trú ... Tôi đã chứng ngộ tam thiền ... và tôi đã từ bỏ tham ái ... và tôi đã từ bỏ sân ... và tôi đã từ bỏ, đã quăng bỏ, đã thoát khỏi, đã dứt bỏ, đã xa rời, đã khai trừ, đã đoạn trừ si, và tâm của tôi không bị che lấp bởi tham ái ... và tâm của tôi không bị che lấp bởi sân ... và tâm của tôi không bị che lấp bởi si” bị phạm tội pārājika ―(như trên)―
Với ba yếu tố, vị cố tình nói điều dối trá: “Tôi đã chứng ... Tôi chứng ... Tôi đã chứng được tam thiền và sơ thiền ... tam thiền và nhị thiền ... Tôi có đạt tam thiền và nhị thiền ... Tôi có trú ... Tôi đã chứng ngộ nhị thiền và sơ thiền” bị phạm tội pārājika ―(như trên)―
Với ba yếu tố, vị cố tình nói điều dối trá: “Tâm của tôi không bị che lấp bởi si và tôi đã chứng ... và tôi chứng ... và tôi đã chứng được sơ thiền ... nhị thiền ... tam thiền ... Tâm của tôi không bị che lấp bởi si và tôi có đạt tứ thiền ... tôi có trú ... Tâm của tôi không bị che lấp bởi si và tôi đã chứng ngộ tứ thiền” bị phạm tội pārājika ―(như trên)―
Với ba yếu tố, vị cố tình nói điều dối trá: “Tâm của tôi không bị che lấp bởi si và tôi đã chứng ... và tôi chứng ... và tôi đã chứng được vô phiền não giải thoát, ... vô tướng giải thoát, ... vô nguyện giải thoát ... Tâm của tôi không bị che lấp bởi si và tôi có đạt vô nguyện giải thoát ... tôi có trú ... Tâm của tôi không bị che lấp bởi si và tôi đã chứng ngộ vô nguyện giải thoát” bị phạm tội pārājika ―(như trên)―
Với ba yếu tố, vị cố tình nói điều dối trá: “Tâm của tôi không bị che lấp bởi si và tôi đã chứng ... và tôi chứng ... và tôi đã chứng được vô phiền não định, vô tướng định, và vô nguyện định ... Tâm của tôi không bị che lấp bởi si và tôi có đạt vô nguyện định ... tôi có trú ... Tâm của tôi không bị che lấp bởi si và tôi đã chứng ngộ vô nguyện định” bị phạm tội pārājika―(như trên)―
Với ba yếu tố, vị cố tình nói điều dối trá: “Tâm của tôi không bị che lấp bởi si và tôi đã chứng ... và tôi chứng ... và tôi đã chứng được sự chứng đạt về vô phiền não, sự chứng đạt về vô tướng, sự chứng đạt về vô nguyện ... Tâm của tôi không bị che lấp bởi si và tôi có đạt sự chứng đạt về vô nguyện ... tôi có trú ... Tâm của tôi không bị che lấp bởi si và tôi đã chứng ngộ sự chứng đạt về vô nguyện” bị phạm tội pārājika ―(như trên)―
Với ba yếu tố, vị cố tình nói điều dối trá: “Tâm của tôi không bị che lấp bởi si và tôi đã chứng ... và tôi chứng ... và tôi đã chứng được ba Minh ... Tâm của tôi không bị che lấp bởi si và tôi có đạt ba Minh ... tôi có trú ... Tâm của tôi không bị che lấp bởi si và tôi đã chứng ngộ ba Minh” bị phạm tội pārājika ―(như trên)―
Với ba yếu tố, vị cố tình nói điều dối trá: “Tâm của tôi không bị che lấp bởi si và tôi đã chứng ... và tôi chứng ... và tôi đã chứng được bốn sự thiết lập niệm, bốn chánh cần, bốn nền tảng của thần thông ... Tâm của tôi không bị che lấp bởi si và tôi có đạt bốn nền tảng của thần thông ... tôi có trú ... Tâm của tôi không bị che lấp bởi si và tôi đã chứng ngộ bốn nền tảng của thần thông” bị phạm tội pārājika ―(như trên)―
Với ba yếu tố, vị cố tình nói điều dối trá: “Tâm của tôi không bị che lấp bởi si và tôi đã chứng ... và tôi chứng ... và tôi đã chứng được năm quyền ... năm lực ... Tâm của tôi không bị che lấp bởi si và tôi có đạt năm lực ... tôi có trú ... Tâm của tôi không bị che lấp bởi si và tôi đã chứng ngộ năm lực” bị phạm tội pārājika ―(như trên)―
Với ba yếu tố, vị cố tình nói điều dối trá: “Tâm của tôi không bị che lấp bởi si và tôi đã chứng ... và tôi chứng ... và tôi đã chứng được bảy giác chi ... Tâm của tôi không bị che lấp bởi si và tôi có đạt bảy giác chi ... tôi có trú ... Tâm của tôi không bị che lấp bởi si và tôi đã chứng ngộ bảy giác chi” bị phạm tội pārājika ―(như trên)―
Với ba yếu tố, vị cố tình nói điều dối trá: “Tâm của tôi không bị che lấp bởi si và tôi đã chứng ... và tôi chứng ... và tôi đã chứng được Thánh Đạo tám chi phần ... Tâm của tôi không bị che lấp bởi si và tôi có đạt Thánh Đạo tám chi phần ... tôi có trú ... Tâm của tôi không bị che lấp bởi si và tôi đã chứng ngộ Thánh Đạo tám chi phần” bị phạm tội pārājika ―(như trên)―
Với ba yếu tố, vị cố tình nói điều dối trá: “Tâm của tôi không bị che lấp bởi si và tôi đã chứng ... và tôi chứng ... và tôi đã chứng được quả Nhập Lưu, quả Nhất Lai, quả Bất Lai, phẩm vị A-la-hán ... Tâm của tôi không bị che lấp bởi si và tôi có đạt phẩm vị A-la-hán ... tôi có trú ... Tâm của tôi không bị che lấp bởi si và tôi đã chứng ngộ phẩm vị A-la-hán” bị phạm tội pārājika ―(như trên)―
Với ba yếu tố, vị cố tình nói điều dối trá: “Tâm của tôi không bị che lấp bởi si và tôi đã chứng ... và tôi chứng ... và tôi đã chứng được sơ thiền ... Tâm của tôi không bị che lấp bởi si và tôi có đạt sơ thiền ... tôi có trú ... Tâm của tôi không bị che lấp bởi si và tôi đã chứng ngộ sơ thiền” bị phạm tội pārājika ―(như trên)―
Với ba yếu tố ... Với bảy yếu tố, vị cố tình nói điều dối trá: “Tâm của tôi không bị che lấp bởi si và tôi đã chứng nhị thiền ... tam thiền ... tứ thiền ... vô phiền não giải thoát ... Tâm của tôi không bị che lấp bởi sân” bị phạm tội pārājika: ... Trước đó, vị ấy khởi ý rằng: ‘Ta sẽ nói điều dối trá,’ trong khi nói (biết rằng): ‘Ta đang nói điều dối trá,’ đã nói xong (biết rằng): ‘Điều dối trá đã được ta nói,’ đã che giấu quan điểm, đã che giấu điều mong mỏi, đã che giấu điều khao khát, đã che giấu ý định.
Dứt phần một nhân tố.
*****
Phần hai nhân tố, phần ba nhân tố, phần bốn nhân tố, phần năm nhân tố, phần sáu nhân tố, phần bảy nhân tố, phần tám nhân tố, phần chín nhân tố, phần mười nhân tố nên được thực hiện. Theo cách các từ ngữ đã được trình bày, phần một nhân tố nên được triển khai. Phần một nhân tố đã được giải chi tiết như thế nào, phần hai nhân tố cũng nên được giải chi tiết y như thế.
Với ba yếu tố ... Với bảy yếu tố, vị cố tình nói điều dối trá: “Tôi đã chứng ... Tôi chứng ... Tôi đã chứng được sơ thiền, nhị thiền, tam thiền, tứ thiền, vô phiền não giải thoát, vô tướng giải thoát, vô nguyện giải thoát, vô phiền não định, vô tướng định, vô nguyện định, sự chứng đạt về vô phiền não, sự chứng đạt về vô tướng, sự chứng đạt về vô nguyện, ba Minh, bốn sự thiết lập niệm, bốn chánh cần, bốn nền tảng của thần thông, năm quyền, năm lực, bảy giác chi, Thánh Đạo tám chi phần, quả Nhập Lưu, quả Nhất Lai, quả Bất Lai, phẩm vị A-la-hán, ―(như trên)― Tôi đã từ bỏ tham ái, tôi đã từ bỏ sân, tôi đã từ bỏ, đã quăng bỏ, đã thoát khỏi, đã dứt bỏ, đã xa rời, đã khai trừ, đã đoạn trừ si, tâm của tôi không bị che lấp bởi tham ái, tâm của tôi không bị che lấp bởi sân, và tâm của tôi không bị che lấp bởi si” bị phạm tội pārājika: ―(như trên)― Trước đó, vị ấy khởi ý rằng: ‘Ta sẽ nói điều dối trá,’ trong khi nói (biết rằng): ‘Ta đang nói điều dối trá,’ đã nói xong (biết rằng): ‘Điều dối trá đã được ta nói,’ đã che giấu quan điểm, đã che giấu điều mong mỏi, đã che giấu điều khao khát, đã che giấu ý định.
Dứt phần tất cả các nhân tố.
Dứt phần giảng về các trường hợp đơn giản.
*****
Với ba yếu tố, vị có ý định nói rằng: “Tôi đã chứng sơ thiền” lại cố tình nói điều dối trá: “Tôi đã chứng nhị thiền,” (người nghe) hiểu được thì phạm tội pārājika, (người nghe) không hiểu được thì phạm tội thullaccaya.
Với ba yếu tố, vị có ý định nói rằng: “Tôi đã chứng sơ thiền” lại cố tình nói điều dối trá: “Tôi đã chứng tam thiền ... tứ thiền ... vô phiền não giải thoát ... vô tướng giải thoát ... vô nguyện giải thoát ... vô phiền não định ... vô tướng định ... vô nguyện định ... sự chứng đạt về vô phiền não ... sự chứng đạt về vô tướng ... sự chứng đạt về vô nguyện ... ba Minh ... bốn sự thiết lập niệm ... bốn chánh cần ... bốn nền tảng của thần thông ... năm quyền ... năm lực ... bảy giác chi ... Thánh Đạo tám chi phần ... quả Nhập Lưu ... quả Nhất Lai ... quả Bất Lai ... phẩm vị A-la-hán ... Tôi đã từ bỏ tham ái ... Tôi đã từ bỏ sân ... Tôi đã từ bỏ, đã quăng bỏ, đã thoát khỏi, đã dứt bỏ, đã xa rời, đã khai trừ, đã đoạn trừ si ... Tâm của tôi không bị che lấp bởi tham ái ... Tâm của tôi không bị che lấp bởi sân ... Tâm của tôi không bị che lấp bởi si,” (người nghe) hiểu được thì phạm tội pārājika, (người nghe) không hiểu được thì phạm tội thullaccaya: Trước đó, vị ấy khởi ý rằng: ‘Ta sẽ nói điều dối trá,’ trong khi nói (biết rằng): ‘Ta đang nói điều dối trá,’ đã nói xong (biết rằng): ‘Điều dối trá đã được ta nói,’ đã che giấu quan điểm, đã che giấu điều mong mỏi, đã che giấu điều khao khát, đã che giấu ý định.
Dứt sự luân phiên từng phần của một nhân tố theo lời phát biểu của người nói.
*****
Với ba yếu tố, vị có ý định nói rằng: “Tôi đã chứng nhị thiền” lại cố tình nói điều dối trá: “Tôi đã chứng tam thiền,” (người nghe) hiểu được thì phạm tội pārājika, (người nghe) không hiểu được thì phạm tội thullaccaya.
Với ba yếu tố, vị có ý định nói rằng: “Tôi đã chứng nhị thiền” lại cố tình nói điều dối trá: “Tâm của tôi không bị che lấp bởi si,” (người nghe) hiểu được thì phạm tội pārājika, (người nghe) không hiểu được thì phạm tội thullaccaya.
Với ba yếu tố ... Với bảy yếu tố, vị có ý định nói rằng: “Tôi đã chứng nhị thiền” lại cố tình nói điều dối trá: “Tôi đã chứng sơ thiền,” (người nghe) hiểu được thì phạm tội pārājika, (người nghe) không hiểu được thì phạm tội thullaccaya ―(như trên)― đã che giấu ý định.
Sự luân phiên kết hợp của một nhân tố theo lời phát biểu của người nói.
*****
Phần Nhân Tố Được Tóm Lược
Với ba yếu tố, vị có ý định nói rằng: “Tâm của tôi không bị che lấp bởi si” lại cố tình nói điều dối trá: “Tôi đã chứng sơ thiền,” (người nghe) hiểu được thì phạm tội pārājika, (người nghe) không hiểu được thì phạm tội thullaccaya.
Với ba yếu tố, vị có ý định nói rằng: “Tâm của tôi không bị che lấp bởi si” lại cố tình nói điều dối trá: “Tâm của tôi không bị che lấp bởi sân,” (người nghe) hiểu được thì phạm tộipārājika, (người nghe) không hiểu được thì phạm tội thullaccaya.
Dứt phần một nhân tố theo lời phát biểu của người nói.
Phần hai nhân tố, phần ba nhân tố, phần bốn nhân tố, phần năm nhân tố, phần sáu nhân tố, phần bảy nhân tố, phần tám nhân tố, phần chín nhân tố, phần mười nhân tố nên được thực hiện y như thế.
*****
Đây là phần tất cả các nhân tố
Với ba yếu tố, ―(như trên)― Với bảy yếu tố, vị có ý định nói rằng: “Tôi đã chứng sơ thiền, nhị thiền, tam thiền, tứ thiền, vô phiền não giải thoát, vô tướng giải thoát, vô nguyện giải thoát, vô phiền não định, vô tướng định, vô nguyện định, sự chứng đạt về vô phiền não, sự chứng đạt về vô tướng, sự chứng đạt về vô nguyện, ba Minh, bốn sự thiết lập niệm, bốn chánh cần, bốn nền tảng của thần thông, năm quyền, năm lực, bảy giác chi, Thánh Đạo tám chi phần, quả Nhập Lưu, quả Nhất Lai, quả Bất Lai, phẩm vị A-la-hán ... Tôi đã từ bỏ tham ái ... Tôi đã từ bỏ sân ... Tôi đã từ bỏ, đã quăng bỏ, đã thoát khỏi, đã dứt bỏ, đã xa rời, đã khai trừ, đã đoạn trừ si, tâm của tôi không bị che lấp bởi tham ái, tâm của tôi không bị che lấp bởi sân, tâm của tôi không bị che lấp bởi si,” lại cố tình nói điều dối trá, (người nghe) hiểu được thì phạm tội pārājika, (người nghe) không hiểu được thì phạm tội thullaccaya ―(như trên)― đã che giấu ý định.
Với ba yếu tố, vị có ý định nói rằng: “Tôi đã chứng nhị thiền, tam thiền, tứ thiền, vô phiền não giải thoát, vô tướng giải thoát, vô nguyện giải thoát, vô phiền não định, vô tướng định, vô nguyện định, sự chứng đạt về vô phiền não, sự chứng đạt về vô tướng, sự chứng đạt về vô nguyện, ba Minh, bốn sự thiết lập niệm, bốn chánh cần, bốn nền tảng của thần thông, năm quyền, năm lực, bảy giác chi, Thánh Đạo tám chi phần, quả Nhập Lưu, quả Nhất Lai, quả Bất Lai, phẩm vị A-la-hán, tôi đã từ bỏ tham ái, tôi đã từ bỏ sân, tôi đã từ bỏ, đã quăng bỏ, đã thoát khỏi, đã dứt bỏ, đã xa rời, đã khai trừ, đã đoạn trừ si, tâm của tôi không bị che lấp bởi tham ái, tâm của tôi không bị che lấp bởi sân, và tâm của tôi không bị che lấp bởi si” lại cố tình nói điều dối trá: “Tôi đã chứng sơ thiền,” (người nghe) hiểu được thì phạm tội pārājika, (người nghe) không hiểu được thì phạm tội thullaccaya.
Với ba yếu tố, vị có ý định nói rằng: “Tôi đã chứng tam thiền, tứ thiền, ―(như trên)― Tâm của tôi không bị che lấp bởi si ―(như trên)― và tôi đã chứng sơ thiền” lại cố tình nói điều dối trá: “Tôi đã chứng nhị thiền,” (người nghe) hiểu được thì phạm tội pārājika, (người nghe) không hiểu được thì phạm tội thullaccaya.
Với ba yếu tố, vị có ý định nói rằng: “Tâm của tôi không bị che lấp bởi si, và tôi đã chứng sơ thiền, nhị thiền, tam thiền, tứ thiền, ―(như trên)― Tâm của tôi không bị che lấp bởi tham ái” lại cố tình nói điều dối trá: “Tâm của tôi không bị che lấp bởi sân,” (người nghe) hiểu được thì phạm tội pārājika, (người nghe) không hiểu được thì phạm tội thullaccaya: Trước đó, vị ấy khởi ý rằng: ‘Ta sẽ nói điều dối trá,’ trong khi nói (biết rằng): ‘Ta đang nói điều dối trá,’ đã nói xong (biết rằng): ‘Điều dối trá đã được ta nói,’ đã che giấu quan điểm, đã che giấu điều mong mỏi, đã che giấu điều khao khát, đã che giấu ý định.
Phần tất cả các nhân tố.
Dứt phần giản lược về sự luân phiên theo lời phát biểu của người nói.
Dứt phần giảng về trường hợp ‘Có ý định nói.’
*****
Với ba yếu tố, vị cố tình nói điều dối trá: “Vị tỳ khưu cư ngụ trong trú xá của đạo hữu đã chứng, chứng, đã chứng được sơ thiền, vị tỳ khưu ấy có đạt, có trú sơ thiền, sơ thiền đã được chứng ngộ bởi vị tỳ khưu ấy,” (người nghe) hiểu được thì phạm tội thullaccaya, (người nghe) không hiểu được thì phạm tội dukkaṭa: Trước đó, vị ấy khởi ý rằng: ‘Ta sẽ nói điều dối trá,’ trong khi nói (biết rằng): ‘Ta đang nói điều dối trá,’ đã nói xong (biết rằng): ‘Điều dối trá đã được ta nói.’
Với bốn yếu tố ... Với năm yếu tố ... Với sáu yếu tố ... Với bảy yếu tố, vị cố tình nói điều dối trá: “Vị tỳ khưu cư ngụ trong trú xá của đạo hữu đã chứng, chứng, đã chứng được sơ thiền, vị tỳ khưu ấy có đạt, có trú sơ thiền, sơ thiền đã được chứng ngộ bởi vị tỳ khưu ấy,” (người nghe) hiểu được thì phạm tội thullaccaya, (người nghe) không hiểu được thì phạm tội dukkaṭa: Trước đó, vị ấy khởi ý rằng: ‘Ta sẽ nói điều dối trá,’ trong khi nói (biết rằng): ‘Ta đang nói điều dối trá,’ đã nói xong (biết rằng): ‘Điều dối trá đã được ta nói,’ đã che giấu quan điểm, đã che giấu điều mong mỏi, đã che giấu điều khao khát, đã che giấu ý định.
Với ba yếu tố, vị cố tình nói điều dối trá: “Vị tỳ khưu cư ngụ trong trú xá của đạo hữu đã chứng ... chứng ... đã chứng được nhị thiền ... tam thiền ... tứ thiền ... vô phiền não giải thoát ... vô tướng giải thoát ... vô nguyện giải thoát ... vô phiền não định ... vô tướng định ... vô nguyện định ... sự chứng đạt về vô phiền não ... sự chứng đạt về vô tướng ... sự chứng đạt về vô nguyện ... ba Minh ... bốn sự thiết lập niệm ... bốn chánh cần ... bốn nền tảng của thần thông ... năm quyền ... năm lực ... bảy giác chi ... Thánh Đạo tám chi phần ... quả Nhập Lưu ... quả Nhất Lai ... quả Bất Lai ... phẩm vị A-la-hán ... Vị tỳ khưu ấy có đạt phẩm vị A-la-hán ... có trú ... phẩm vị A-la-hán đã được chứng ngộ bởi vị tỳ khưu ấy,” (người nghe) hiểu được thì phạm tội thullaccaya, (người nghe) không hiểu được thì phạm tội dukkaṭa.
Với ba yếu tố, vị cố tình nói điều dối trá: “Vị tỳ khưu ấy đã từ bỏ tham ái ... đã từ bỏ sân ... đã từ bỏ, đã quăng bỏ, đã thoát khỏi, đã dứt bỏ, đã xa rời, đã khai trừ, đã đoạn trừ si,” (người nghe) hiểu được thì phạm tội thullaccaya, (người nghe) không hiểu được thì phạm tội dukkaṭa.
Với ba yếu tố ... Với bảy yếu tố, vị cố tình nói điều dối trá: “Vị tỳ khưu ấy có tâm không bị che lấp bởi tham ái ... có tâm không bị che lấp bởi sân ... có tâm không bị che lấp bởi si,” (người nghe) hiểu được thì phạm tội thullaccaya, (người nghe) không hiểu được thì phạm tội dukkaṭa: Trước đó, vị ấy khởi ý rằng: ‘Ta sẽ nói điều dối trá,’ trong khi nói (biết rằng): ‘Ta đang nói điều dối trá,’ đã nói xong (biết rằng): ‘Điều dối trá đã được ta nói,’ đã che giấu quan điểm, đã che giấu điều mong mỏi, đã che giấu điều khao khát, đã che giấu ý định.
Với ba yếu tố ... Với bảy yếu tố, vị cố tình nói điều dối trá: “Vị tỳ khưu cư ngụ trong trú xá của đạo hữu đã chứng ... chứng... đã chứng được sơ thiền ... nhị thiền ... tam thiền ... tứ thiền ở nơi thanh vắng ... vị tỳ khưu ấy có đạt tứ thiền ở nơi thanh vắng ... có trú ... tứ thiền ở nơi thanh vắng đã được chứng ngộ bởi vị tỳ khưu ấy,” (người nghe) hiểu được thì phạm tội thullaccaya, (người nghe) không hiểu được thì phạm tội dukkaṭa: Trước đó, vị ấy khởi ý rằng: ‘Ta sẽ nói điều dối trá,’ trong khi nói (biết rằng): ‘Ta đang nói điều dối trá,’ đã nói xong (biết rằng): ‘Điều dối trá đã được ta nói,’ đã che giấu quan điểm, đã che giấu điều mong mỏi, đã che giấu điều khao khát, đã che giấu ý định.
Với ba yếu tố ... Với bảy yếu tố, vị cố tình nói điều dối trá: “Vị nào đã thọ dụng trú xá của đạo hữu, vị nào đã thọ dụng y của đạo hữu, vị nào đã thọ dụng vật thực của đạo hữu, vị nào đã thọ dụng chỗ trú ngụ của đạo hữu, vị nào đã thọ dụng thuốc men trị bệnh của đạo hữu, vị tỳ khưu ấy đã chứng ... chứng ... đã chứng được tứ thiền ở nơi thanh vắng, vị tỳ khưu ấy có đạt tứ thiền ở nơi thanh vắng ... có trú ... tứ thiền ở nơi thanh vắng đã được chứng ngộ bởi vị tỳ khưu ấy,” (người nghe) hiểu được thì phạm tội thullaccaya, (người nghe) không hiểu được thì phạm tội dukkaṭa. ―(như trên)―
Với ba yếu tố ... Với bảy yếu tố, vị cố tình nói điều dối trá: “ Trú xá của đạo hữu đã được thọ dụng bởi vị nào, y của đạo hữu đã được thọ dụng bởi vị nào, vật thực của đạo hữu đã được thọ dụng bởi vị nào, chỗ trú ngụ của đạo hữu đã được thọ dụng bởi vị nào, thuốc men trị bệnh của đạo hữu đã được thọ dụng bởi vị nào, vị tỳ khưu ấy đã chứng ... chứng ... đã chứng được tứ thiền ở nơi thanh vắng, vị tỳ khưu ấy có đạt tứ thiền ở nơi thanh vắng ... có trú ... tứ thiền ở nơi thanh vắng đã được chứng ngộ bởi vị tỳ khưu ấy,” (người nghe) hiểu được thì phạm tội thullaccaya, (người nghe) không hiểu được thì phạm tội dukkaṭa. ―(như trên)―
Với ba yếu tố ... Với bảy yếu tố, vị cố tình nói điều dối trá: “Vị nào đạo hữu đã đi đến và đã dâng y, đã dâng vật thực, đã dâng chỗ trú ngụ, đã dâng thuốc men trị bệnh, vị tỳ khưu ấy đã chứng ... chứng ... đã chứng được tứ thiền ở nơi thanh vắng, vị tỳ khưu ấy có đạt tứ thiền ở nơi thanh vắng ... có trú ... tứ thiền ở nơi thanh vắng đã được chứng ngộ bởi vị tỳ khưu ấy,” (người nghe) hiểu được thì phạm tội thullaccaya, (người nghe) không hiểu được thì phạm tội dukkaṭa: Trước đó, vị ấy khởi ý rằng: ‘Ta sẽ nói điều dối trá,’ trong khi nói (biết rằng): ‘Ta đang nói điều dối trá,’ đã nói xong (biết rằng): ‘Điều dối trá đã được ta nói,’ đã che giấu quan điểm, đã che giấu điều mong mỏi, đã che giấu điều khao khát, đã che giấu ý định.
Dứt mười lăm phần giản lược.
Dứt phần giảng về các trường hợp liên quan đến vật dụng.
Dứt phần giản lược về sự luân phiên của các Pháp Thượng Nhân.
*****
Vì sự tự tin thái quá, vị không có ý định khoác lác, vị bị điên, vị có tâm bị rối loạn, vị bị thọ khổ hành hạ, vị vi phạm đầu tiên thì vô tội.”
--ooOoo--
CHUYỆN DẪN GIẢI - KỆ NGÔN TÓM LƯỢC
Do tự tin thái quá, trong rừng, đồ ăn khất thực, thầy tế độ, oai nghi, các sự trói buộc, nơi vắng vẻ, trú xá, các pháp (thượng nhân), được hộ độ.
Không phải là việc khó, tinh tấn, tử thần, sợ hãi, này đại đức, sự ân hận, chơn chánh, với sự tinh tấn, với sự gắn bó, đưa đến sự thành tựu, rồi có hai câu chuyện về cảm thọ.
Bà-la-môn năm chuyện, ba chuyện vị đề cập trí giải thoát, ngụ nhà, các dục đã ngăn chặn, thỏa thích, và ra đi.
Bộ xương và miếng thịt, hai chuyện kẻ giết bò, cục thịt kẻ bẫy chim, không da người hàng thịt, cây gươm kẻ mổ heo, cây lao thợ săn nai, mũi tên người xử án, cây kim kẻ dạy thú.
Người đâm thọc bị khâu, mang tinh hoàn quan tòa, chìm hố kẻ ngoại tình, Bà-la-môn quỷ quyệt là kẻ bị ăn phân.
Không da gái lăng loàn, gớm ghiếc bà bói toán, thị héo hon tàn tạ, đổ than hồng tình địch, đầu cụt kẻ trảm tù.
Tỳ khưu, tỳ khưu ni, ni tập sự, sa di, rồi vị sa di ni, đã xuất gia trong Luật của Phật Kassapa chúng đã làm ác nghiệp.
Dòng sông Tapodā, thành Rājagaha, chiến trận (Licchavi), và chuyện rồng lặn hụp, tỳ khưu Sobhita là vị A-la-hán nhớ được năm trăm kiếp.
*****
Vào lúc bấy giờ, có vị tỳ khưu nọ do sự tự tin thái quá đã nói về trí giải thoát. Vị ấy đã có nỗi nghi hoặc: “Điều học đã được đức Thế Tôn quy định; phải chăng ta đã phạm tộipārājika?” Sau đó, vị tỳ khưu ấy đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn. ―(như trên)― “Này tỳ khưu, do sự tự tin thái quá thì vô tội.” (1)
Vào lúc bấy giờ, có vị tỳ khưu nọ cư ngụ ở trong rừng sau khi đã mong mỏi rằng: “Như vầy thì dân chúng sẽ kính trọng ta!” Dân chúng đã kính trọng vị ấy. Vị ấy đã có nỗi nghi hoặc, rồi đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn. ―(như trên)― “Này tỳ khưu, không phạm tội pārājika. Và này các tỳ khưu, không nên cư ngụ ở trong rừng sau khi đã mong mỏi; vị nào cư ngụ thì phạm tội dukkaṭa.” (2)
Vào lúc bấy giờ, có vị tỳ khưu nọ đi khất thực sau khi đã mong mỏi rằng: “Như vầy thì dân chúng sẽ kính trọng ta!” Dân chúng đã kính trọng vị ấy. Vị ấy đã có nỗi nghi hoặc, rồi đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn. ―(như trên)― “Này tỳ khưu, không phạm tội pārājika. Và này các tỳ khưu, không nên đi khất thực sau khi đã mong mỏi; vị nào đi thì phạm tội dukkaṭa.” (3)
Vào lúc bấy giờ, có vị tỳ khưu nọ đã nói với vị tỳ khưu khác điều này: - “Này đại đức, tất cả các đệ tử của thầy tế độ của chúng ta đều là các vị A-la-hán.” Vị ấy đã có nỗi nghi hoặc, rồi đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn. ―(như trên)― “Này tỳ khưu, (khi ấy) ngươi có tâm gì?” - “Bạch Thế Tôn, con có ý định khoác lác.” - “Này tỳ khưu, không phạm tội pārājika mà phạm tội thullaccaya.”[10] (4)
Vào lúc bấy giờ, có vị tỳ khưu nọ đã nói với vị tỳ khưu khác điều này: - “Này đại đức, tất cả các học trò của thầy tế độ của chúng ta đều có đại thần lực, có đại oai lực.” Vị ấy đã có nỗi nghi hoặc, rồi đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn. ―(như trên)― “Này tỳ khưu, (khi ấy) ngươi có tâm gì?” - “Bạch Thế Tôn, con có ý định khoác lác.” - “Này tỳ khưu, không phạm tội pārājika mà phạm tội thullaccaya.” (5)
Vào lúc bấy giờ, có vị tỳ khưu nọ đi kinh hành sau khi đã mong mỏi rằng: ―(như trên)― đứng yên sau khi đã mong mỏi rằng: ―(như trên)― ngồi xuống sau khi đã mong mỏi rằng: ―(như trên)― nằm xuống sau khi đã mong mỏi rằng: “Như vầy thì dân chúng sẽ kính trọng ta!” Dân chúng đã kính trọng vị ấy. Vị ấy đã có nỗi nghi hoặc, rồi đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn. ―(như trên)― “Này tỳ khưu, không phạm tội pārājika. Và này các tỳ khưu, không nên nằm xuống sau khi đã mong mỏi; vị nào nằm xuống thì phạm tội dukkaṭa.” (6-9)
Vào lúc bấy giờ, có vị tỳ khưu nọ khoác lác về pháp thượng nhân đến vị tỳ khưu khác. Vị ấy cũng đã nói như vầy: - “Này đại đức, những sự trói buộc của tôi cũng đã được dứt bỏ.” Vị ấy đã có nỗi nghi hoặc, rồi đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn. ―(như trên)― “Này tỳ khưu, ngươi đã phạm tội pārājika.” (10)
Vào lúc bấy giờ, có vị tỳ khưu nọ đi đến nơi vắng vẻ rồi khoác lác về pháp thượng nhân. Có vị tỳ khưu biết được tâm người khác đã phản bác vị tỳ khưu ấy rằng: - “Này đại đức, chớ có nói như thế. Điều ấy đại đức không có.” Vị ấy đã có nỗi nghi hoặc, rồi đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn. ―(như trên)― “Này tỳ khưu, không phạm tội pārājika mà phạm tộidukkaṭa.” (11)
Vào lúc bấy giờ, có vị tỳ khưu nọ đi đến nơi vắng vẻ rồi khoác lác về pháp thượng nhân. Có vị Thiên nhân đã phản bác vị tỳ khưu ấy rằng: - “Thưa ngài, chớ có nói như thế. Điều ấy ngài không có.” Vị ấy đã có nỗi nghi hoặc, rồi đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn. ―(như trên)― “Này tỳ khưu, không phạm tội pārājika mà phạm tội dukkaṭa.” (12)
Vào lúc bấy giờ, có vị tỳ khưu nọ đã nói với nam cư sĩ nọ điều này: - “Này đạo hữu, vị tỳ khưu sống trong trú xá của đạo hữu là vị A-la-hán.” Và vị tỳ khưu ấy sống trong trú xá của người ấy. Vị ấy đã có nỗi nghi hoặc, ―(như trên)― “Này tỳ khưu, (khi ấy) ngươi có tâm gì?” - “Bạch Thế Tôn, con có ý định khoác lác.” - “Này tỳ khưu, không phạm tội pārājika mà phạm tội thullaccaya.”1 (13)
Vào lúc bấy giờ, có vị tỳ khưu nọ đã nói với nam cư sĩ nọ điều này: - “Này đạo hữu, vị tỳ khưu mà ngươi hộ độ bằng vật dụng là y phục, vật thực, chỗ trú ngụ, và thuốc men trị bệnh là vị A-la-hán.” Và người ấy đang hộ độ vị tỳ khưu ấy bằng vật dụng là y phục, vật thực, chỗ trú ngụ, và thuốc men trị bệnh. Vị ấy đã có nỗi nghi hoặc, rồi đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn. ―(như trên)― “Này tỳ khưu, (khi ấy) ngươi có tâm gì?” - “Bạch Thế Tôn, con có ý định khoác lác.” “Này tỳ khưu, không phạm tội pārājika mà phạm tội thullaccaya.” (14)
Vào lúc bấy giờ, có vị tỳ khưu nọ bị bệnh. Các tỳ khưu đã nói với vị ấy điều này: - “Đại đức có pháp thượng nhân không?” “Này các đại đức, không phải là việc khó để nói lên trí giải thoát.” Vị ấy đã có nỗi nghi hoặc: “Chỉ có những vị Thinh Văn của đức Thế Tôn mới có thể nói như thế. Và ta không phải là Thinh Văn của đức Thế Tôn; phải chăng ta đã phạm tội pārājika?” Rồi đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn. ―(như trên)― “Này tỳ khưu, (khi ấy) ngươi có tâm gì?” - “Bạch Thế Tôn, con không có ý định khoác lác.” “Này tỳ khưu, vị không có ý định khoác lác thì vô tội.” (15)
Vào lúc bấy giờ, có vị tỳ khưu nọ bị bệnh. Các tỳ khưu đã nói với vị ấy điều này: - “Đại đức có pháp thượng nhân không?” “Này các đại đức, pháp sẽ được thành tựu với vị có sự tinh tấn đã được ra sức.” Vị ấy đã có nỗi nghi hoặc, rồi đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn. ―(như trên)― “Này tỳ khưu, vị không có ý định khoác lác thì vô tội.” (16)
Vào lúc bấy giờ, có vị tỳ khưu nọ bị bệnh. Các tỳ khưu đã nói với vị ấy điều này: - “Này đại đức, chớ có sợ hãi!” - “Này các đại đức, tôi không sợ hãi thần chết.” Vị ấy đã có nỗi nghi hoặc: ―(như trên)― “Này tỳ khưu, vị không có ý định khoác lác thì vô tội.” (17)
Vào lúc bấy giờ, có vị tỳ khưu nọ bị bệnh. Các tỳ khưu đã nói với vị ấy điều này: - “Này đại đức, chớ có sợ hãi!” - “Này các đại đức, có lẽ vị nào có sự ân hận thì vị ấy mới sợ hãi.” Vị ấy đã có nỗi nghi hoặc: ―(như trên)― “Này tỳ khưu, vị không có ý định khoác lác thì vô tội.” (18)
Vào lúc bấy giờ, có vị tỳ khưu nọ bị bệnh. Các tỳ khưu đã nói với vị ấy điều này: - “Đại đức có pháp thượng nhân không?” “Này các đại đức, pháp sẽ được thành tựu với vị có sự hành trì chơn chánh.” Vị ấy đã có nỗi nghi hoặc, rồi đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn. ―(như trên)― “Này tỳ khưu, vị không có ý định khoác lác thì vô tội.” (19)
Vào lúc bấy giờ, có vị tỳ khưu nọ bị bệnh. Các tỳ khưu đã nói với vị ấy điều này: - “Đại đức có pháp thượng nhân không?” “Này các đại đức, pháp sẽ được thành tựu với vị có sự tinh tấn đã được ra sức.” Vị ấy đã có nỗi nghi hoặc, rồi đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn. ―(như trên)― “Này tỳ khưu, vị không có ý định khoác lác thì vô tội.”[11] (20)
Vào lúc bấy giờ, có vị tỳ khưu nọ bị bệnh. Các tỳ khưu đã nói với vị ấy điều này: - “Đại đức có pháp thượng nhân không?” - “Này các đại đức, pháp sẽ được thành tựu với vị có sự kiên trì gắn bó.” Vị ấy đã có nỗi nghi hoặc: ―(như trên)― “Này tỳ khưu, vị không có ý định khoác lác thì vô tội.” (21)
Vào lúc bấy giờ, có vị tỳ khưu nọ bị bệnh. Các tỳ khưu đã nói với vị ấy điều này: - “Này đại đức, sức khoẻ có khá không? Mọi việc có được tốt đẹp không?” - “Này các đại đức, người nào khác thì không thể chịu đựng nổi.” Vị ấy đã có nỗi nghi hoặc: ―(như trên)― “Này tỳ khưu, vị không có ý định khoác lác thì vô tội.” (22)
Vào lúc bấy giờ, có vị tỳ khưu nọ bị bệnh. Các tỳ khưu đã nói với vị ấy điều này: - “Này đại đức, sức khoẻ có khá không? Mọi việc có được tốt đẹp không?” “Này các đại đức, phàm nhân thì không thể chịu đựng nổi.” Vị ấy đã có nỗi nghi hoặc: ―(như trên)― “Này tỳ khưu, (khi ấy) ngươi có tâm gì?” - “Bạch Thế Tôn, con có ý định khoác lác.” - “Này tỳ khưu, không phạm tội pārājika mà phạm tội thullaccaya.” (23)
Vào lúc bấy giờ, có người Bà-la-môn nọ đã thỉnh mời các tỳ khưu và đã nói điều này: - “Thưa các ngài, xin các vị A-la-hán hãy ngự đến.” Các vị ấy đã có nỗi nghi hoặc: “Chúng ta không phải là các vị A-la-hán và người Bà-la-môn này gọi chúng ta bằng từ A-la-hán. Vậy chúng ta nên xử trí như thế nào đây?” Rồi đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn. ―(như trên)― “Này các tỳ khưu, vô tội trong việc xưng hô theo đức tin.” (24)
Vào lúc bấy giờ, có người Bà-la-môn nọ đã thỉnh mời các tỳ khưu và đã nói điều này: - “Thưa các ngài, xin các vị A-la-hán hãy ngồi xuống.” ―(như trên)― “Thưa các ngài, xin các vị A-la-hán hãy thọ thực.” ―(như trên)― “Thưa các ngài, xin các vị A-la-hán hãy được hài lòng.” ―(như trên)― “Thưa các ngài, xin các vị A-la-hán hãy ra đi.” Các vị ấy đã có nỗi nghi hoặc: “Chúng ta không phải là các vị A-la-hán và người Bà-la-môn này lại đối xử với chúng ta bằng danh xưng A-la-hán. Vậy chúng ta nên xử trí như thế nào đây?” Rồi đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn. ―(như trên)― “Này các tỳ khưu, vô tội trong việc xưng hô theo đức tin.” (25-28)
Vào lúc bấy giờ, có vị tỳ khưu nọ khoác lác với vị tỳ khưu khác về pháp thượng nhân. Vị ấy cũng đã nói như vầy: - “Này đại đức, tôi cũng đã đoạn tận các lậu hoặc.” Vị ấy đã có nỗi nghi hoặc: ―(như trên)― “Này tỳ khưu, ngươi đã phạm tội pārājika.” (29)
Vào lúc bấy giờ, có vị tỳ khưu nọ khoác lác với vị tỳ khưu khác về pháp thượng nhân. Vị ấy cũng đã nói như vầy: - “Này đại đức, các pháp này cũng được tìm thấy ở tôi.” Vị ấy đã có nỗi nghi hoặc: ―(như trên)― “Này tỳ khưu, ngươi đã phạm tội pārājika.” (30)
Vào lúc bấy giờ, có vị tỳ khưu nọ khoác lác với vị tỳ khưu khác về pháp thượng nhân. Vị ấy cũng đã nói như vầy: - “Này đại đức, tôi cũng thành thục các pháp này.” Vị ấy đã có nỗi nghi hoặc: ―(như trên)― “Này tỳ khưu, ngươi đã phạm tội pārājika.” (31)
Vào lúc bấy giờ, các thân quyến đã nói với vị tỳ khưu nọ điều này: - “Thưa ngài, hãy đến và ngụ ở gia đình.” - “Này các đạo hữu, người như tôi không thể ngụ ở gia đình.” Vị ấy đã có nỗi nghi hoặc: ―(như trên)― “Này tỳ khưu, vị không có ý định khoác lác thì vô tội.” (32)
Vào lúc bấy giờ, các thân quyến đã nói với vị tỳ khưu nọ điều này: - “Thưa ngài, hãy đến và thọ dụng các dục.” - “Này các đạo hữu, các dục của tôi đã được ngăn chặn.” Vị ấy đã có nỗi nghi hoặc: ―(như trên)― “Này tỳ khưu, vị không có ý định khoác lác thì vô tội.” (33)
Vào lúc bấy giờ, các thân quyến đã nói với vị tỳ khưu nọ điều này: - “Thưa ngài, xin hãy thỏa thích.” - “Này các đạo hữu, tôi được thỏa thích với sự thỏa thích tối thượng.” Vị ấy đã có nỗi nghi hoặc: “Chỉ có những vị Thinh Văn của đức Thế Tôn mới có thể nói như thế. Và ta không phải là Thinh Văn của đức Thế Tôn; phải chăng ta đã phạm tội pārājika?” Rồi đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn. “Này tỳ khưu, (khi ấy) ngươi có tâm gì?” - “Bạch Thế Tôn, con không có ý định khoác lác.” “Này tỳ khưu, vị không có ý định khoác lác thì vô tội.” (34)
Vào lúc bấy giờ, có nhiều vị tỳ khưu đã vào mùa (an cư) mưa ở trú xứ nọ sau khi thỏa thuận rằng: - “Vị nào sẽ rời trú xứ này trước tiên, chúng ta sẽ biết vị ấy là ‘vị A-la-hán.’” Có vị tỳ khưu nọ (nghĩ rằng): “Hãy để cho các vị biết ta là ‘vị A-la-hán,’” rồi đã rời trú xứ ấy trước tiên. Vị ấy đã có nỗi nghi hoặc: ―(như trên)― “Này tỳ khưu, ngươi đã phạm tội pārājika.” (35)
Lúc bấy giờ, đức Thế Tôn ngự tại thành Rājagaha, Veḷuvana, nơi nuôi dưỡng các con sóc. Vào lúc bấy giờ, đại đức Lakkhaṇa và đại đức Mahāmoggallāna cư ngụ tại núi Gijjhakūṭa. Khi ấy vào buổi sáng, đại đức Mahāmoggallāna đã mặc y cầm y bát đi đến gặp đại đức Lakkhaṇa, sau khi đến đã nói với đại đức Lakkhaṇa điều này: - “Này đại đức Lakkhaṇa, chúng ta hãy đi vào thành Rājagaha để khất thực.” - “Này đại đức, xin vâng.” Đại đức Lakkhaṇa đã trả lời đại đức Mahāmoggallāna.
Sau đó, trong khi đi xuống từ núi Gijjhakūṭa, tại khu vực nọ đại đức Mahāmoggallāna đã mỉm cười. Khi ấy, đại đức Lakkhaṇa đã nói với đại đức Mahāmoggallāna điều này: - “Này đại đức Mahāmoggallāna, nhân gì duyên gì đưa đến việc mỉm cười vậy?” - “Này đại đức Lakkhaṇa, không phải là thời điểm của câu hỏi này, hãy hỏi ta câu hỏi này trong sự hiện diện của đức Thế Tôn.”
Sau đó, đại đức Lakkhaṇa và đại đức Mahāmoggallāna đã đi khất thực ở trong thành Rājagaha, sau bữa ăn khi đi khất thực trở về đã đi đến gặp đức Thế Tôn, sau khi đến đã đảnh lễ đức Thế Tôn rồi ngồi xuống ở một bên. Khi đã ngồi xuống một bên, đại đức Lakkhaṇa đã nói với đại đức Mahā-moggallāna điều này: - “Ở đây, đại đức Mahāmoggallāna, trong khi đang đi xuống từ núi Gijjhakūṭa, tại khu vực nọ đã mỉm cười. Này đại đức Mahāmoggallāna, nhân gì duyên gì đưa đến việc mỉm cười vậy?” “Này đại đức, trong khi đang đi xuống từ núi Gijjhakūṭa, ta đây đã nhìn thấy bộ xương đang đi trong hư không. Có những con chim kên kên, chim quạ, chim ưng[12] lăn xả lao vào bộ xương ấy, rứt ra các phần ở khoảng giữa các xương sườn; bộ xương ấy đã rên rỉ khổ sở. Này đại đức, ta đây đã khởi ý điều này: ‘Thật là kỳ diệu! Thật là phi thường! Cũng có chúng sanh lại trở thành như thế này! Cũng có Dạ-xoa lại trở thành như thế này! Cũng có ngạ quỷ lại trở thành như thế này! Cũng có sự hình thành bản ngã lại là như thế này!’” Các tỳ khưu phàn nàn, phê phán, chê bai rằng: - “Đại đức Mahāmoggallāna khoác lác về pháp thượng nhân.”
Khi ấy, đức Thế Tôn đã bảo các vị tỳ khưu rằng: - “Này các tỳ khưu, quả thật các Thinh Văn sống với mắt thấy như thật! Này các tỳ khưu, quả thật các Thinh Văn sống với trí biết như thật! Bởi vì là Thinh Văn thì sẽ biết, hoặc sẽ thấy, hoặc sẽ chứng kiến điều như thế. Này các tỳ khưu, trước đây Ta đã thấy chúng sanh ấy, tuy nhiên Ta đã không nói ra. Và nếu Ta nói ra điều ấy thì những kẻ khác có thể không tin Ta, những ai không tin Ta thì việc ấy sẽ đem lại cho chúng sự bất hạnh khổ đau lâu dài. Này các tỳ khưu, chúng sanh ấy đã là kẻ giết trâu bò ở ngay trong thành Rājagaha này. Kẻ ấy, do quả của nghiệp ấy, sau khi đã bị nung nấu trong địa ngục nhiều năm, nhiều trăm năm, nhiều ngàn năm, nhiều trăm ngàn năm, và do quả dư sót của chính nghiệp ấy đã gánh chịu sự hình thành bản ngã có hình thức như thế. Này các tỳ khưu, Moggallāna đã nói sự thật. Này các tỳ khưu, Moggallāna không phạm tội.” (36)
“Này đại đức, trong khi đang đi xuống từ núi Gijjhakūṭa, ta đây đã nhìn thấy miếng thịt đang đi trong hư không. Có những con chim kên kên, chim quạ, chim ưng lăn xả lao vào miếng thịt ấy day nghiến, rứt ra; miếng thịt ấy đã rên rỉ khổ sở. ―(như trên)― “Này các tỳ khưu, chúng sanh ấy đã là kẻ giết trâu bò ở ngay trong thành Rājagaha này.” (37)
“Này đại đức, trong khi đang đi xuống từ núi Gijjhakūṭa, ta đây đã nhìn thấy cục thịt đang đi trong hư không. Có những con chim kên kên, chim quạ, chim ưng lăn xả lao vào cục thịt ấy, day nghiến, rứt ra; cục thịt ấy đã rên rỉ khổ sở. ―(như trên)― “Này các tỳ khưu, chúng sanh ấy đã là kẻ bẫy chim ở ngay trong thành Rājagaha này.” (38)
“Này đại đức, trong khi đang đi xuống từ núi Gijjhakūṭa, ta đây đã nhìn thấy người đàn ông không có lớp da (bao bọc)[13] đang đi trong hư không. Có những con chim kên kên, chim quạ, chim ưng lăn xả lao vào người ấy, day nghiến, rứt ra; người ấy đã rên rỉ khổ sở.” ―(như trên)― “Này các tỳ khưu, chúng sanh ấy đã là người hàng thịt ở ngay trong thành Rājagaha này.” (39)
“Này đại đức, trong khi đang đi xuống từ núi Gijjhakūṭa, ta đây đã nhìn thấy người có lông là các cây gươm đang đi trong hư không. Những cây gươm ấy lăn xả lao vào người ấy, rơi xuống trên cơ thể của chính người ấy; người ấy đã rên rỉ khổ sở. ―(như trên)― “Này các tỳ khưu, chúng sanh ấy đã là người mổ heo ở ngay trong thành Rājagaha này.” (40)
“Này đại đức, trong khi đang đi xuống từ núi Gijjhakūṭa, ta đây đã nhìn thấy người có lông là các cây lao đang đi trong hư không. Những cây lao ấy lăn xả lao vào người ấy, rơi xuống trên cơ thể của chính người ấy; người ấy đã rên rỉ khổ sở. ―(như trên)― “Này các tỳ khưu, chúng sanh ấy đã là người thợ săn nai ở ngay trong thành Rājagaha này.” (41)
“Này đại đức, trong khi đang đi xuống từ núi Gijjhakūṭa, ta đây đã nhìn thấy người có lông là các mũi tên đang đi trong hư không. Những mũi tên ấy lăn xả lao vào người ấy, rơi xuống trên cơ thể của chính người ấy; người ấy đã rên rỉ khổ sở. ―(như trên)― “Này các tỳ khưu, chúng sanh ấy đã là người tra khảo ở ngay trong thành Rājagaha này.” (42)
“Này đại đức, trong khi đang đi xuống từ núi Gijjhakūṭa, ta đây đã nhìn thấy người có lông là các cây kim đang đi trong hư không. Những cây kim ấy lăn xả lao vào người ấy, rơi xuống trên cơ thể của chính người ấy; người ấy đã rên rỉ khổ sở. ―(như trên)― “Này các tỳ khưu, chúng sanh ấy đã là người đánh xe ở ngay trong thành Rājagaha này.” (43)
“Này đại đức, trong khi đang đi xuống từ núi Gijjhakūṭa, ta đây đã nhìn thấy người có lông là các cây kim đang đi trong hư không. Những cây kim ấy đã đi vào đầu của người ấy rồi đi ra từ miệng, đã đi vào miệng rồi đi ra từ ngực, đã đi vào ngực rồi đi ra từ bụng, đã đi vào bụng rồi đi ra từ hai đùi, đã đi vào hai đùi rồi đi ra từ hai cẳng chân, đã đi vào hai cẳng chân rồi đi ra từ hai bàn chân; người ấy đã rên rỉ khổ sở. ―(như trên)― “Này các tỳ khưu, chúng sanh ấy đã là kẻ nói lời đâm thọc ở ngay trong thành Rājagaha này.” (44)
“Này đại đức, trong khi đang đi xuống từ núi Gijjhakūṭa, ta đây đã nhìn thấy người hình thù quỷ sứ đang đi trong hư không. Trong lúc đi, người ấy đặt hai tinh hoàn ở trên vai rồi đi. Trong khi ngồi xuống, người ấy ngồi xuống trên chính hai tinh hoàn ấy. Có những con chim kên kên, chim quạ, chim ưng lăn xả lao vào người ấy, day nghiến, rứt ra; người ấy đã rên rỉ khổ sở. ―(như trên)― “Này các tỳ khưu, chúng sanh ấy đã là quan xử án[14] ở ngay trong thành Rājagaha này.” (45)
“Này đại đức, trong khi đang đi xuống từ núi Gijjhakūṭa, ta đây đã nhìn thấy người bị chìm đến tận đầu ở trong hố phân ―(như trên)― “Này các tỳ khưu, chúng sanh ấy đã là kẻ phạm tội ngoại tình ở ngay trong thành Rājagaha này.” (46)
“Này đại đức, trong khi đang đi xuống từ núi Gijjhakūṭa, ta đây đã nhìn thấy người bị chìm đến tận đầu ở trong hố phân, đang ăn phân bằng hai bàn tay ―(như trên)― “Này các tỳ khưu, chúng sanh ấy đã là kẻ Bà-la-môn quỷ quyệt ở ngay trong thành Rājagaha này. Trong thời Giáo Pháp của đức Chánh Đẳng Giác Kassapa, kẻ ấy đã thỉnh mời hội chúng tỳ khưu bữa ăn. Sau khi cho người đổ đầy các máng phân và thông báo thời giờ, kẻ ấy đã nói điều này: - ‘Này các ngài, hãy ăn rồi hãy mang đi theo ý thích.’” (47)
“Này đại đức, trong khi đang đi xuống từ núi Gijjhakūṭa, ta đây đã nhìn thấy người đàn bà không có lớp da (bao bọc) đang đi trong hư không. Có những con chim kên kên, chim quạ, chim ưng lăn xả lao vào cô ấy, day nghiến, rứt ra; cô ấy đã rên rỉ khổ sở. ―(như trên)― “Này các tỳ khưu, người đàn bà ấy đã là gái lăng loàn ở ngay trong thành Rājagaha này. (48)
“Này đại đức, trong khi đang đi xuống từ núi Gijjhakūṭa, ta đây đã nhìn thấy người đàn bà hôi thối gớm ghiếc đang đi trong hư không. Có những con chim kên kên, chim quạ, chim ưng lăn xả lao vào cô ấy, day nghiến, rứt ra; cô ấy đã rên rỉ khổ sở. ―(như trên)― “Này các tỳ khưu, người đàn bà ấy đã là bà bói toán ở ngay trong thành Rājagaha này.” (49)
“Này đại đức, trong khi đang đi xuống từ núi Gijjhakūṭa, ta đây đã nhìn thấy người đàn bà bị thiêu đốt, héo hon, tàn tạ; cô ấy đã rên rỉ khổ sở. ―(như trên)― “Này các tỳ khưu, người đàn bà ấy đã là đệ nhất hoàng hậu của đức vua Kāliṅga. Bà ta lộ vẻ ghen tương đã dùng chậu than cháy đỏ trút lên người tình địch.” (50)
“Này đại đức, trong khi đang đi xuống từ núi Gijjhakūṭa, ta đây đã nhìn thấy thi thể không đầu đang đi trong hư không, còn các con mắt và miệng thì ở trên ngực của người ấy. Có những con chim kên kên, chim quạ, chim ưng lăn xả lao vào người ấy, day nghiến, rứt ra; người ấy đã rên rỉ khổ sở. ―(như trên)― “Này các tỳ khưu, chúng sanh ấy đã là người xử tử bọn trộm cướp tên Hārika ở ngay trong thành Rājagaha này.” (51)
“Này đại đức, trong khi đang đi xuống từ núi Gijjhakūṭa, ta đây đã nhìn thấy vị tỳ khưu đang đi trong hư không, y hai lớp của vị ấy bị cháy đỏ, cháy rực, có ngọn lửa, bình bát cũng bị cháy đỏ, cháy rực, có ngọn lửa, dây thắt lưng cũng bị cháy đỏ, cháy rực, có ngọn lửa, thân hình cũng bị cháy đỏ, cháy rực, có ngọn lửa; vị ấy đã rên rỉ khổ sở. ―(như trên)― “Này các tỳ khưu, vị tỳ khưu ấy đã là vị ác tỳ khưu ở vào thời Giáo Pháp của đức Chánh Đẳng Giác Kassapa.” (52)
“Này đại đức, trong khi đang đi xuống từ núi Gijjhakūṭa, ta đây đã nhìn thấy vị tỳ khưu ni ―(như trên)― đã nhìn thấy vị ni tu tập sự ―(như trên)― đã nhìn thấy vị sa di ―(như trên)― đã nhìn thấy vị sa di ni đang đi trong hư không, y hai lớp[15] của vị ni ấy bị cháy đỏ, cháy rực, có ngọn lửa, bình bát cũng bị cháy đỏ, cháy rực, có ngọn lửa, dây thắt lưng cũng bị cháy đỏ, cháy rực, có ngọn lửa, thân hình cũng bị cháy đỏ, cháy rực, có ngọn lửa; vị ni ấy đã rên rỉ khổ sở. Này đại đức, ta đây đã khởi ý điều này: “Thật là kỳ diệu! Thật là phi thường! Cũng có chúng sanh lại trở thành như thế này! Cũng có Dạ-xoa lại trở thành như thế này! Cũng có ngạ quỷ lại trở thành như thế này! Cũng có sự hình thành bản ngã lại là như thế này!” Các tỳ khưu phàn nàn, phê phán, chê bai rằng: - “Đại đức Mahāmoggallāna khoác lác về pháp thượng nhân.”
Khi ấy, đức Thế Tôn đã bảo các vị tỳ khưu rằng: - “Này các tỳ khưu, quả thật các Thinh Văn sống với mắt thấy như thật! Này các tỳ khưu, quả thật các Thinh Văn sống với trí biết như thật! Bởi vì là Thinh Văn thì sẽ biết, hoặc sẽ thấy, hoặc sẽ chứng kiến điều như thế. Này các tỳ khưu, trước đây Ta đã thấy vị sa di ni ấy, tuy nhiên Ta đã không nói ra. Và nếu Ta nói ra thì những kẻ khác có thể không tin Ta, những ai không tin Ta thì việc ấy sẽ đem lại cho chúng sự bất hạnh khổ đau lâu dài. Này các tỳ khưu, vị sa di ni ấy đã là ác sa di ni ở vào thời Giáo Pháp của đức Chánh Đẳng Giác Kassapa. Vị ni ấy, do quả của nghiệp ấy, đã bị nung nấu trong địa ngục nhiều năm, nhiều trăm năm, nhiều ngàn năm, nhiều trăm ngàn năm, và do quả dư sót của chính nghiệp ấy đã gánh chịu sự hình thành bản ngã có hình thức như thế. Này các tỳ khưu, Moggallāna đã nói sự thật. Này các tỳ khưu, Moggallāna không phạm tội.” (53-56)
Khi ấy, đại đức Mahāmoggallāna đã nói với các tỳ khưu rằng: - “Này các đại đức, dòng sông Tapodā chảy ra từ cái hồ có nước trong, có nước mát, có nước ngọt, có nước thanh khiết, có chỗ nghỉ chân xinh đẹp, đáng thưởng ngoạn, có nhiều cá và rùa, có những đóa hoa sen tròn nở rộ.” Các tỳ khưu phàn nàn, phê phán, chê bai rằng: - “Vì sao đại đức Mahāmoggallāna lại phát biểu như vầy: ‘Này các đại đức, dòng sông Tapodā chảy ra từ cái hồ có nước trong, có nước mát, có nước ngọt, có nước thanh khiết, có chỗ nghỉ chân xinh đẹp, đáng thưởng ngoạn, có nhiều cá và rùa, có những đóa hoa sen tròn nở rộ?’ Vả lại dòng sông Tapodā này là nóng bỏng và trôi chảy. Đại đức Mahāmoggallāna khoác lác về pháp thượng nhân.” Các vị đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn. “Này các tỳ khưu, dòng sông Tapodā chảy ra từ cái hồ có nước trong, có nước mát, có nước ngọt, có nước thanh khiết, có chỗ nghỉ chân xinh đẹp, đáng thưởng ngoạn, có nhiều cá và rùa, có những đóa hoa sen tròn nở rộ. Này các tỳ khưu, tuy nhiên dòng sông Tapodā này đi qua giữa hai đại địa ngục, vì thế dòng sông Tapodā này trở nên nóng bỏng và trôi chảy. Này các tỳ khưu, Moggallāna đã nói sự thật. Này các tỳ khưu, Moggallāna không phạm tội.” (57)
Vào lúc bấy giờ, đức vua Seniya Bimbisāra xứ Magadha, trong lúc giao chiến với các vị Licchavi, đã bị đánh tan tác. Sau đó, khi đã gom góp lại đội binh hậu bị, đức vua đã đánh bại các vị Licchavi. Và trong trận chiến có sự vui mừng loan truyền rằng: “Các vị Licchavi đã bị đức vua đánh tan tác.” Khi ấy, đại đức Mahāmoggallāna đã nói với các tỳ khưu rằng: - “Này các đại đức, đức vua đã bị các vị Licchavi đánh tan tác. Và trong trận chiến có sự vui mừng loan truyền rằng: ‘Các vị Licchavi đã bị đức vua đánh tan tác.’” Các tỳ khưu phàn nàn, phê phán, chê bai rằng: - “Vì sao đại đức Mahāmoggallāna lại phát biểu như vầy: ‘Này các đại đức, đức vua đã bị các vị Licchavi đánh tan tác. Và trong trận chiến có sự vui mừng loan truyền rằng: Các vị Licchavi đã bị đức vua đánh tan tác’? Đại đức Mahāmoggallāna khoác lác về pháp thượng nhân.” Các vị đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn. - “Này các tỳ khưu, trước tiên đức vua đã bị các vị Licchavi đánh tan tác. Sau đó, khi đã gom góp lại đội binh hậu bị, đức vua đã đánh bại các vị Licchavi. Này các tỳ khưu, Moggallāna đã nói sự thật. Này các tỳ khưu, Moggallāna không phạm tội.” (58)
Sau đó, đại đức Mahāmoggallāna đã nói với các tỳ khưu rằng: - “Này các đại đức, được thể nhập định bất thối, tôi đây ở nơi bờ sông Sappinikā đã nghe tiếng động của các con rồng đang hụp xuống rồi trồi lên và gầm lên tiếng rống.” Các tỳ khưu phàn nàn, phê phán, chê bai rằng: - “Làm sao đại đức Mahāmoggallāna, được thể nhập định bất thối, lại có thể nghe tiếng động? Đại đức Mahāmoggallāna khoác lác về pháp thượng nhân.” Các vị đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn. - “Này các tỳ khưu, có loại định này và vị ấy chưa được thuần thục lắm. Này các tỳ khưu, Moggallāna đã nói sự thật. Này các tỳ khưu, Moggallāna không phạm tội.” (59)
Khi ấy, đại đức Sobhita đã nói với các tỳ khưu rằng: - “Này các đại đức, tôi nhớ được năm trăm kiếp.” Các tỳ khưu phàn nàn, phê phán, chê bai rằng: - “Vì sao đại đức Sobhita lại nói như vầy: ‘Này các đại đức, tôi nhớ được năm trăm kiếp’? Đại đức Sobhita khoác lác về pháp thượng nhân.” Các vị đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn. - “Này các tỳ khưu, Sobhita đã sống kiếp sống ấy, và kiếp sống ấy chính là một kiếp sống của Sobhita. Này các tỳ khưu, Sobhita đã nói sự thật. Này các tỳ khưu, Sobhita không phạm tội.” (60)
Điều pārājika thứ tư được đầy đủ.
--ooOoo--
Bạch chư đại đức, bốn điều pārājika đã được đọc tụng xong. Vị tỳ khưu vi phạm điều nọ hoặc điều kia thuộc về các điều này thì không đạt được sự cộng trú cùng với các vị tỳ khưu,[16] trước đây như thế nào thì sau này là như vậy;[17] (vị ấy) là vị phạm tội pārājika không được cộng trú.
Trong các điều ấy, tôi hỏi các đại đức rằng: Chắc hẳn các vị được thanh tịnh trong vấn đề này? Đến lần thứ nhì, tôi hỏi rằng: Chắc hẳn các vị được thanh tịnh trong vấn đề này? Đến lần thứ ba, tôi hỏi rằng: Chắc hẳn các vị được thanh tịnh trong vấn đề này? Các đại đức ở đây được thanh tịnh nên mới im lặng. Tôi ghi nhận sự việc này là như vậy.
Dứt Điều Học Pārājika.
--ooOoo--
TÓM LƯỢC CHƯƠNG NÀY
Bốn điều pārājika là: việc đôi lứa, vật không được cho, mạng người, pháp thượng nhân. Sự việc nên được phân tích, không còn sự nghi vấn.
Dứt Chương Pārājika.
--ooOoo--
[1] Ngài Buddhaghosa giải thích rằng: “Assāso ti bahi nikkhamanavāto. Passāso ti anto pavisanavāto = Hơi thở ra là gió đi ra bên ngoài. Hơi thở vào là gió đi vào bên trong” (VinA. ii, 408). Như thế assasati là thở ra, passasati là thở vào. Nếu hiểu như vậy thì phương pháp Ānāpānassati hay “Niệm hơi thở” nên được trình bày và tu tập theo thứ tự hơi thở ra trước rồi mới đến hơi thở vào.
[2] Trong bốn mệnh đề đầu, động từ được sử dụng là pajānāti (biết rõ) và có liên từ “vā” (hay là, hoặc là) xen vào giữa. Từ mệnh đề thứ năm trở đi, động từ là sikkhati (thực tập, thực hành, học tập).
[3] Theo lời giải thích của ngài Buddhaghosa, sabbakāya nên được hiểu là phần đầu, phần giữa, và phần cuối của toàn bộ hơi thở ra mỗi khi thở ra, hoặc toàn bộ hơi thở vào mỗi khi thở vào (VinA. ii, 411)
[4] A, B, C, D được thêm vào cho dễ hiểu dựa theo Chú Giải (VinA. ii, 448-450).
[5] Là việc bị mổ banh bụng ra bởi con dao bén của kẻ giết trâu bò (ND).
[6] Là việc nói lời ca ngợi lẫn nhau về pháp thượng nhân đến các người tại gia (ND).
[7] Kinh Pháp Cú, câu 307.
[8] Kinh Pháp Cú, câu 308.
[9] Vô phiền não giải thoát (suññato vimokkho) là nội tâm không còn tham sân si, vô tướng giải thoát (animitto vimokkho) là nội tâm không còn các biểu hiện của tham sân si, vô nguyện giải thoát (appaṇihito vimokkho) là không còn trạng thái mong mỏi tham sân si (VinA. ii, 492).
[10] Vị ấy vì chưa đề cập rõ ràng bản thân là A-la-hán (ahan ti avuttatā) nên không phạm tội pārājika(VinA. ii, 503).
[11] Câu chuyện này được lập lại y như câu chuyện (16) ở trên.
[12] Ngài Buddhaghosa giải thích các chim kên kên, chim quạ, chim ưng này là các Dạ-xoa có dạng chim, “yakkhagijjhā yakkhakākā yakkhakulalā” (VinA. ii, 507).
[13] Ngài Buddhaghosa giải thích về người không có lớp da bao bọc là do việc người này đã giết các con dê rồi lột da nên bị quả báu không có lớp da bao bọc (VinA. ii, 509).
[14] Người này tuy là quan xử án nhưng nhận hối lộ ở nơi kín đáo rồi xử án thiên lệch nên bị trả quả phải phơi bày vật kín ra (VinA. ii, 510).
[15] Có thể đây là một lầm lẫn trong lúc gom các đoạn văn trùng lặp lại với nhau vì các vị ni tu tập sự, sa di, sa di ni không có y hai lớp (saṅghāṭi). Chỉ tỳ khưu và tỳ khưu ni mới có y này.
[16] Không đạt được sự cộng trú cùng với các vị tỳ khưu nghĩa là vị ấy không còn được tham dự các lễ Uposatha (lễ Bố Tát), lễ Pavāraṇā (lễ Tự Tứ), việc đọc tụng giới bổn Pātimokkha, và các loại hành sự của hội chúng (VinA. ii, 516).
[17] Trước đây như thế nào thì sau này là như vậy (yathā pure tathā pacchā) nghĩa là trước đây còn tại gia chưa tu lên bậc trên sự cách biệt đối với các vị tỳ khưu như thế nào, bây giờ sau khi phạm tội pārājika thì phải theo đúng như thế ấy (VinA. ii, 516).
Phiên bản thư viện demo v4.5 [Tipiṭaka Tiếng Việt] Theravada