1. Vào lúc bấy giờ, ở không xa thành Vesālī có ngôi làng tên là Kalanda. Ở nơi y, có người con trai nhà đại phú tên là Sudinna Kalandaputta. Khi ấy, Sudinna Kalandaputta đã đi đến Vesālī cùng với nhiều người bạn vì công việc cần làm nào đó. Vào lúc bấy giờ, đức Thế Tôn, được vây quanh bởi hội chúng đông đo, đang ngồi thuyết giảng Giáo Pháp.

2. Sudinna Kalandaputta đã nhìn thấy đức Thế Tôn được vây quanh bởi hội chúng đông đo đang ngồi thuyết giảng Giáo Pháp. Sau khi nhìn thấy, anh ta đã khởi ý điều này:[16] “Hay là ta cũng nên nghe Pháp?” Khi ấy, Sudinna Kalandaputta đã đi đến gần hội chúng ấy, sau khi đến đã ngồi xuống ở một bên. Khi đã ngồi xuống một bên, Sudinna Kalandaputta đã khởi ý điu này: “Theo như ta hiểu về Pháp đã đưc đức Thế Tôn thuyết giảng thì việc này không phải là dễ làm đối với ngưi đang sống ở gia đình để thực hành Phạm hạnh một cách đy đủ trọn vẹn, hoàn toàn thanh tịnh như vỏ ốc được cạo sạch. Hay là ta nên cạo bỏ râu tóc, khoác lên các y màu ca-sa, rời nhà xuất gia sống không nhà?”

3. Sau đó, khi đã đưc đức Thế Tôn chỉ dạy, thức tỉnh, khuyến khích, và tạo niềm phấn khởi bằng bài Pháp thoại, hội chúng ấy đã từ chỗ ngồi đứng dậy, đảnh lễ đức Thế Tôn, hướng vai phải nhiễu quanh, và ra đi.

4. Sau đó, khi hi chúng đã đứng dậy không bao lâu, Sudinna Kalandaputta đã đi đến gặp đức Thế Tôn, sau khi đến đã đảnh lễ đức Thế Tôn rồi ngồi xuống ở một bên. Khi đã ngồi xuống một bên, Sudinna Kalandaputta đã nói với đức Thế Tôn điều này: - “Bạch Ngài, theo như con hiểu về Pháp đã đưc đức Thế Tôn thuyết giảng thì việc này không phải là việc dễ làm đối với ngưi đang sống ở gia đình để thực hành Phạm hạnh một cách đy đủ trọn vẹn, hoàn toàn thanh tịnh như vỏ ốc được cạo sạch. Bạch Ngài, con muốn cạo bỏ râu tóc, khoác lên các y màu ca-sa, rời nhà xuất gia sống không nhà. Xin đức Thế Tôn hãy (làm lễ) xuất gia cho con.”

- “Này Sudinna, vậy ngươi đã được mẹ và cha cho phép về việc rời nhà xuất gia sống không nhà chưa?”

- “Bạch Ngài, con chưa được mẹ và cha cho phép về việc rời nhà xuất gia sống không nhà.”

- “Này Sudinna, các đc Như Lai không (làm lễ) xuất gia cho ngưi con trai chưa được mẹ và cha cho phép.”

- “Bạch Ngài, bằng cách nào khiến mẹ và cha sẽ cho phép con về việc rời nhà xuất gia sống không nhà thì con đây sẽ làm theo cách ấy.”

5. Sau đó, khi đã hoàn tất công việc cần làm ấy ở Vesālī, Sudinna Kalandaputta đã đi về lại làng Kalanda đến gặp mẹ và cha, sau khi đến đã nói với mẹ và cha điều này: - “Mẹ và cha à, theo như con hiểu về Pháp đã đưc đức Thế Tôn thuyết giảng thì việc này không phải là việc dễ làm đối với ngưi đang sống ở gia đình để thực hành Phạm hạnh một cách đy đủ trọn vẹn, hoàn toàn thanh tịnh như vỏ ốc được cạo sạch. Con muốn cạo bỏ râu tóc, khoác lên các y màu ca-sa, rời nhà xuất gia sống không nhà. Hãy cho phép con về việc rời nhà xuất gia sống không nhà.” Khi đưc nói như thế, mẹ và cha của Sudinna Kalandaputta đã nói với Sudinna Kalandaputta điu này: - “Này Sudinna thương, con chính là con trai một, yêu dấu, quý mến của mẹ và cha, được lớn lên trong sung sưng, và đưc chăm sóc cẩn thận. Này Sudinna thương, con không biết bất cứ điều gì về khổ đau. Chỉ có sự chết thì mẹ và cha đành phải xa con một cách miễn cưng; làm sao trong lúc con đang còn sống mẹ và cha lại cho phép con về việc rời nhà xuất gia sống không nhà được?”

6. Đến lần thứ nhì, ―(như trên)Đến lần thứ ba, Sudinna Kalandaputta đã nói với mẹ và cha điều này: - “Mẹ và cha à, theo như con hiểu về Pháp đã đưc đức Thế Tôn thuyết giảng thì việc này không phải là việc dễ làm đối với ngưi đang sống ở gia đình để thực hành Phạm hạnh một cách đy đủ trọn vẹn, hoàn toàn thanh tịnh như vỏ ốc được cạo sạch. Con muốn cạo bỏ râu tóc, khoác lên các y màu ca-sa, rời nhà xuất gia sống không nhà. Hãy cho phép con về việc rời nhà xuất gia sống không nhà.” Đến lần thứ ba, mẹ và cha của Sudinna Kalandaputta đã nói với Sudinna Kalandaputta điu này: - “Này Sudinna thương, con chính là con trai một, yêu dấu, quý mến của mẹ và cha, được lớn lên trong sung sưng, và đưc chăm sóc cẩn thận. Này Sudinna thương, con không biết bất cứ điều gì về khổ đau. Chỉ có sự chết thì mẹ và cha đành phải xa con một cách miễn cưỡng; làm sao trong lúc con đang còn sống mẹ và cha lại cho phép con về việc rời nhà xuất gia sống không nhà được?”

7. Khi ấy, Sudinna Kalandaputta (nghĩ rằng): “Mẹ và cha không cho phép ta về việc rời nhà xuất gia sống không nhà!” rồi đã nằm xuống ngay tại chỗ ấy, ở trên nền đất không có trải lót (nói rằng): - “Đối với tôi, hoặc là sẽ xảy ra cái chết ngay tại nơi đây, hoặc là sự xuất gia.” Sau đó, Sudinna Kalandaputta đã không ăn một bữa, đã không ăn hai ba, đã không ăn ba ba, đã không ăn bốn bữa, đã không ăn năm ba, đã không ăn sáu ba, đã không ăn bảy bữa.

8. Khi ấy, mẹ và cha của Sudinna Kalandaputta đã nói với Sudinna Kalandaputta điu này: - “Này Sudinna thương, con chính là con trai một, yêu dấu, quý mến của mẹ và cha, được lớn lên trong sung sưng, và đưc chăm sóc cẩn thận. Này Sudinna thương, con không biết bất cứ điều gì về khổ đau. Chỉ có sự chết thì mẹ và cha đành phải xa con một cách miễn cưng; làm sao trong lúc con đang còn sống mẹ và cha lại cho phép con về việc rời nhà xuất gia sống không nhà được? Này Sudinna thương, con hãy đứng dậy, hãy ăn, hãy uống, và hãy chơi đùa. Trong khi ăn, trong khi ung, trong khi chơi đùa, trong khi th hưởng các dục, trong khi làm các điu phước thiện, con có thể thỏa thích, chớ mẹ và cha không cho phép con về việc rời nhà xuất gia sống không nhà.” Khi đưc nói như vy, Sudinna Kalandaputta đã im lặng. Đến lần thứ nhì, ―(như trên)Đến lần thứ ba, mẹ và cha của Sudinna Kalandaputta đã nói với Sudinna Kalandaputta điu này: - “Này Sudinna thương, con chính là con trai một, yêu dấu, quý mến của mẹ và cha, được lớn lên trong sung sưng, và đưc chăm sóc cẩn thận. Này Sudinna thương, con không biết bất cứ điều gì về khổ đau. Chỉ có sự chết thì mẹ và cha đành phải xa con một cách miễn cưng; làm sao trong lúc con đang còn sống mẹ và cha lại cho phép con về việc rời nhà xuất gia sống không nhà đưc? Này Sudinna thương, con hãy đứng dậy, hãy ăn, hãy uống, và hãy chơi đùa. Trong khi ăn, trong khi ung, trong khi chơi đùa, trong khi th hưởng các dục, trong khi làm các điu phước thiện, con có thể thỏa thích, chớ mẹ và cha không cho phép con về việc rời nhà xuất gia sống không nhà.” Đến lần thứ ba, Sudinna Kalandaputta đã im lặng.

9. Sau đó, nhng người bạn của Sudinna Kalandaputta đã đi đến gặp Sudinna Kalandaputta, sau khi đến đã nói với Sudinna Kalandaputta điều này: - “Này Sudinna mến, bạn chính là con trai một, yêu dấu, quý mến của mẹ và cha, được lớn lên trong sung sưng, và đưc chăm sóc cẩn thận. Này Sudinna mến, bạn không biết bất cứ điều gì về khổ đau. Chỉ có sự chết thì mẹ và cha đành phải xa bạn một cách miễn cưỡng; làm sao trong lúc bạn đang còn sống mẹ và cha lại cho phép bạn về việc rời nhà xuất gia sống không nhà được? Này Sudinna mến, bạn hãy đứng dậy, hãy ăn, hãy uống, và hãy chơi đùa. Trong khi ăn, trong khi uống, trong khi chơi đùa, trong khi th hưởng các dục, trong khi làm các điu phước thiện, bạn có thể thỏa thích, chớ mẹ và cha không cho phép bạn về việc rời nhà xuất gia sống không nhà.” Khi đưc nói như vy, Sudinna Kalandaputta đã im lặng. Đến lần thứ nhì, ―(như trên) Đến lần thứ ba, những người bạn của Sudinna Kalandaputta đã nói với Sudinna Kalandaputta điu này: - “Này Sudinna thương, bạn chính là ―(như trên)Đến lần thứ ba, Sudinna Kalandaputta đã im lặng.

10. Khi ấy, những người bạn của Sudinna Kalandaputta đã đi đến gặp mẹ và cha của Sudinna Kalandaputta, sau khi đến đã nói với mẹ và cha của Sudinna Kalandaputta điều này: - “Mẹ và cha à, Sudinna này nằm trên nền đất không có trải lót (nói rằng): ‘Đối với tôi, hoặc là sẽ xảy ra cái chết ngay tại đây, hoặc là sự xuất gia.’ Nếu mẹ và cha không cho phép Sudinna về việc rời nhà xuất gia sống không nhà, anh ta sẽ đi đến cái chết ngay tại chỗ ấy. Vả lại, nếu mẹ và cha cho phép Sudinna về việc rời nhà xuất gia sống không nhà, mẹ và cha sẽ còn nhìn thấy anh ta cho dù đã xuất gia. Nếu Sudinna không thỏa thích trong việc rời nhà xuất gia sống không nhà, thì còn chốn nào khác cho anh ta đây? Anh ta sẽ quay trở về ngay tại chỗ này. Mẹ và cha hãy cho phép Sudinna về việc rời nhà xuất gia sống không nhà đi.” - “Các con thương, mẹ và cha cho phép Sudinna về việc rời nhà xuất gia sống không nhà.” Sau đó, nhng người bạn của Sudinna Kalandaputta đã đi đến gặp Sudinna Kalandaputta, sau khi đến đã nói với Sudinna Kalandaputta điều này: - “Này Sudinna mến, hãy đứng dậy đi. Bn đã được mẹ và cha cho phép về việc rời nhà xuất gia sống không nhà.”

11. Khi ấy, Sudinna Kalandaputta (nghĩ rằng): “Nghe nói ta đã được mẹ và cha cho phép về việc rời nhà xuất gia sống không nhà” nên mừng rỡ phấn chấn, vừa đứng dậy vừa dùng bàn tay phủi khắp mình mẩy. Sau đó nhiu ngày, Sudinna Kalandaputta đã phục hồi lại sức khoẻ và đã đi đến gặp đức Thế Tôn, sau khi đến đã đảnh lễ đức Thế Tôn rồi ngồi xuống ở một bên. Khi đã ngồi xuống một bên, Sudinna Kalandaputta đã nói với đức Thế Tôn điều này: - “Bạch Ngài, con đã được mẹ và cha cho phép về việc rời nhà xuất gia sống không nhà. Bạch Ngài, xin đức Thế Tôn hãy (làm lễ) xuất gia cho con.” Rồi Sudinna Kalandaputta đã đt được sự xuất gia trong sự hiện diện của đức Thế Tôn, đã đt được sự tu lên bậc trên. Khi đã được tu lên bậc trên không bao lâu, đi đc Sudinna đã thọ trì và thực hành các đức hạnh từ khước có hình thức như vầy: là vị ngụ ở rừng, là vị chuyên khất thực, là vị mặc y may bằng vải bị quăng bỏ,[17] là vị đi khất thực theo tuần tự từng nhà. Đi đức sống nương tựa vào ngôi làng nọ thuộc xứ Vajjī.

12. Vào lúc bấy giờ, xứ Vajjī có sự khan hiếm về vật thực, khó kiếm ăn, có dịch bệnh, thẻ vật thực được phân phối, không dễ sinh sống bằng sự ra sức khất thực. Khi ấy, đi đc Sudinna đã khởi ý điều này: “Hiện nay, xứ Vajjī có sự khan hiếm về vật thực, khó kiếm ăn, có dịch bệnh, thẻ vật thực được phân phối, không dễ sinh sống bằng sự ra sức khất thực. Vả lại, nhiều quyến thuộc của ta ở trong thành Vesālī thì giàu sang, có nhiều của cải, nhiều tài sản, có vô số vàng bạc, vô số vật dụng, và dồi dào lúa gạo, hay là ta nên sống nương tựa vào quyến thuộc vậy? Do có liên quan đến ta, quyến thuộc sẽ ban phát các vật thí. Họ sẽ làm các điu phước thiện và các tỳ khưu sẽ nhận được lợi lộc, còn ta sẽ không bị khó nhọc về đăn khất thực.”

13. Sau đó, đi đc Sudinna đã thu xếp chỗ nằm ngồi, cầm y bát, và ra đi về phía thành Vesālī. Theo tuần tự, đi đc đã đến được thành Vesālī. Ti nơi ấy trong thành Vesālī, đi đức Sudinna trú ở Mahāvana. Quyến thuộc của đi đc Sudinna đã nghe được rằng: “Nghe nói Sudinna con trai của Kalanda đã đến thành Vesālī.” H đã đem lại biếu cho đi đức Sudinna bữa ăn gm sáu mươi ni cơm. Khi y, đi đc Sudinna đã phân chia sáu mươi ni cơm ấy cho các tỳ khưu, rồi vào buổi sáng đã mặc y, cầm y bát, đi vào làng Kalanda để khất thực. Trong khi đi tuần tự từng nhà để khất thực, đi đc đã đi đến nhà của cha mình.

14. Vào lúc bấy giờ, người nữ tỳ của quyến thuộc của đi đc Sudinna có ý đnh đ đi món cháo chua đã đ cách đêm. Khi y, đi đc Sudinna đã nói với người nữ tỳ của quyến thuộc ấy điều này: - “Này chị gái, nếu vật ấy cần phải đổ bỏ thì hãy trút vào đây trong bình bát của tôi.” Khi ấy, trong lúc đang trút món cháo chua đã đ cách đêm ấy vào bình bát của đi đc Sudinna, người nữ tỳ của quyến thuộc của đi đc Sudinna đã nhận ra đc điểm của các cánh tay, của các bàn chân, và của giọng nói (của đi đức Sudinna).[18] Sau đó, người nữ tỳ của quyến thuộc của đi đc Sudinna đã đi đến gặp mẹ của đi đc Sudinna, sau khi đến đã nói với mẹ của đi đc Sudinna điều này: - “Bẩm bà, bà nên biết là công tử Sudinna đã trở về.” - “Này nô tỳ, nếu ngươi nói đúng, ta sẽ ban cho ngươi khỏi phận tôi tớ.”

15. Vào lúc bấy giờ, đi đức Sudinna (ngồi) tựa vào chân của vách tường nọ rồi thọ thực món cháo chua đã đ cách đêm y. Và người cha của đi đc Sudinna trong lúc đi công chuyn đã nhìn thấy đi đức Sudinna (ngồi) tựa vào chân của vách tường nọ đang thọ thực món cháo chua đã đ cách đêm ấy, sau khi nhìn thấy đã đi đến gần đi đc Sudinna, sau khi đến đã nói với đi đc Sudinna điu này: - “Này Sudinna thương, lẽ nào con lại ăn món cháo chua đã đ cách đêm? Này Sudinna thương, hay là con nên đi về nhà mình đi?” - “Này gia ch, tôi đã đi đến nhà của ông rồi. Từ nơi đó mà có đưc món cháo chua đã đ cách đêm này.” Khi y, người cha của đi đc Sudinna đã nắm lấy cánh tay của đi đức Sudinna và nói với đi đc Sudinna điều này: - “Này Sudinna thương, hãy đi. Chúng ta s đi v nhà.” Sau đó, đi đc Sudinna đã đi đến nhà của cha mình, sau khi đến đã ngồi xuống trên chỗ ngồi được sắp đặt sẵn. Khi ấy, người cha của đi đc Sudinna đã nói với đi đc Sudinna điu này: - “Này Sudinna thương, con hãy ăn đi.” - “Này gia ch, thôi đi. Việc thọ thực ngày hôm nay của tôi đã hoàn tất.” - “Này Sudinna thương, vậy con hãy nhận lời bữa ăn vào ngày mai.” Đi đc Sudinna đã nhận lời bằng thái độ im lặng. Sau đó, đi đc Sudinna đã từ chỗ ngồi đứng dậy và ra đi.

16. Sau đó, khi tàn đêm ấy mẹ của đi đc Sudinna đã cho phủ lên mặt đất bằng phân bò tươi rồi bảo người chất hai đống gồm một vàng, một bạc. Các đống ấy đã lớn đến mức khiến ngưi đứng ở phía bên này không nhìn thấy ngưi đứng ở phía bên kia, và ngưi đứng ở phía bên kia không nhìn thấy ngưi đứng ở phía bên này. Sau khi đã cho che lại các đống ấy bằng những tấm thảm, cho sắp đặt chỗ ngồi ở giữa, và cho che màn xung quanh, mẹ của đi đc Sudinna đã bảo người vợ cũ của đi đức Sudinna rằng: - “Này con dâu, như thế thì khi trang điểm với đồ trang sức nào mà con đã đưc con trai Sudinna yêu thương quý mến thì con hãy trang điểm với đồ trang sức ấy.” - “Thưa m, xin vâng,” người vợ cũ của đi đc Sudinna đã trả lời mẹ của đi đức Sudinna.

17. Sau đó vào buổi sáng, đi đc Sudinna đã mặc y, cầm y bát, rồi đi đến nhà của cha mình, sau khi đến đã ngồi xuống ở chỗ ngồi được sắp đặt sẵn. Khi ấy, cha của đi đc Sudinna đã đi đến gặp đi đc Sudinna, sau khi đến đã cho mở hai đống ấy ra rồi đã nói với đại đc Sudinna điu này: - “Này Sudinna thương, phần này là vật hồi môn thuộc người nữ là của mẹ con, phần kia là của cha, phần kia là của ông nội. Này Sudinna thương, con có thể quay trở lại cuộc sống tại gia tầm thưng để thọ hưởng của cải và làm các điều pớc thiện đưc mà. Này Sudinna thương, hãy quay về đi con. Hãy quay trở lại cuộc sống tại gia tầm thường, hãy thọ hưởng của cải và làm các điu phước thiện đi.” - “Cha à, tôi không th nào, tôi không dám. Tôi đang thỏa thích thực hành Phạm hạnh.” Đến lần thứ nhì, ―(như trên)Đến lần thứ ba, cha của đi đc Sudinna đã nói với đi đc Sudinna điu này: - “Này Sudinna thương, phần này là vật hồi môn thuộc người nữ là của mẹ con, phần kia là của cha, phần kia là của ông nội. Này Sudinna thương, con có thể quay trở lại cuộc sống tại gia tầm thưng để thọ hưởng của cải và làm các điu phước thiện đưc mà. Này Sudinna thương, hãy quay về đi con. Hãy quay trở lại cuộc sống tại gia tầm thường, hãy thọ hưởng của cải và làm các điu phước thiện đi.” - “Này gia chủ, nếu gia chủ không quá căng thẳng thì chúng ta nên bàn về điều ấy.” - “Này Sudinna thương, hãy nói đi.” - “Này gia chủ, nếu vậy thì hãy bảo làm những bao tải thật lớn, cho đ đầy vàng bạc vào, cho đưa lên các xe kéo hàng, rồi nhận chìm ở giữa sông Gaṅgā. Điều ấy có lý do là gì? Này gia chủ, bởi vì từ đó sẽ là nguyên nhân khiến ông có sự sợ hãi, hoặc có sự kinh hoàng, hoặc có lông dựng đứng, hoặc là sự gìn giữ; điều ấy sẽ không có cho ông nữa.” Khi đưc nói như thế, người cha của đi đc Sudinna đã tỏ ra không hài lòng: - “Tại sao con trai Sudinna lại nói như thế?”

18. Sau đó, cha ca đi đc Sudinna đã bảo người vợ cũ của đi đức Sudinna rằng: - “Này con dâu, nếu vậy thì con cũng hãy nài nỉ. Có lẽ con trai Sudinna sẽ làm theo lời con.” Khi ấy, người vợ cũ của đi đc Sudinna đã ôm lấy hai bàn chân của đi đc Sudinna và đã nói với đi đc Sudinna điều này: - “Công tử ơi, các nàng tiên nữ ấy như thế nào khiến chàng thực hành Phạm hạnh vì các nàng ấy vậy?” - “Này chị gái, tôi thực hành Phạm hạnh không phải vì các nàng tiên nữ.”

19. Khi ấy, người vợ cũ của đi đức Sudinna (nghĩ rằng): “Từ nay, công tử Sudinna xưng hô với ta bằng tiếng chị gái,” nên đã ngất đi rồi ngã xuống ngay tại chỗ ấy. Sau đó, đi đc Sudinna đã nói với cha điều này: - “Này gia chủ, nếu vật thực sẽ được bố thí thì hãy bố thí đi. Ông chớ có quấy rầy chúng ta nữa.” - “Này Sudinna thương, hãy ăn đi.” Khi ấy, mẹ và cha của đi đc Sudinna đã tự tay làm hài lòng và toại ý đi đức Sudinna với thức ăn thượng hạng loại cứng loại mềm. Sau đó, khi đi đức Sudinna đã thọ thực xong bàn tay đã rời bình bát, mẹ của đi đc Sudinna đã nói với đi đc Sudinna điu này: - “Này Sudinna thương, gia đình này thì giàu sang, có nhiều của cải, nhiều tài sản, có vô số vàng bạc, vô số vật dụng, và dồi dào lúa gạo. Này Sudinna thương, con có thể quay trở lại cuộc sống tại gia tầm thưng để thọ hưởng của cải và làm các điu phước thiện đưc mà. Này Sudinna thương, hãy quay về đi con. Hãy quay trở lại cuộc sống tại gia tầm thường, hãy thọ hưởng của cải và làm các điu phước thiện đi.” - “Mẹ à, tôi không thể nào, tôi không dám. Tôi đang thỏa thích thực hành Phạm hạnh.” Đến lần thứ nhì, ―(như trên)Đến lần thứ ba, mẹ của đi đc Sudinna đã nói với đi đc Sudinna điu này: - “Này Sudinna thương, gia đình này thì giàu sang, có nhiều của cải, nhiều tài sản, có vô số vàng bạc, vô số vật dụng, và dồi dào lúa gạo. Này Sudinna thương, chính vì điều ấy con hãy để lại chủng tử. Chớ đ các Licchavi đoạt lấy tài sản không người thừa tự của chúng ta.” - “Mẹ à, điều này tôi có thể làm được.” - “Này Sudinna thương, hiện nay con ngụ ở đâu vậy?” - “Mẹ à, ở Mahāvana.” Sau đó, đi đc Sudinna đã từ chỗ ngồi đứng dậy và ra đi.

20. Sau đó, mẹ của đi đc Sudinna đã bảo người vợ cũ của đi đức Sudinna rằng: - “Này con dâu, nếu vậy thì khi nào đến thời kỳ, kinh nguyệt của con xuất hiện, khi ấy con hãy cho mẹ hay.” - “Thưa m, xin vâng,” người vợ cũ của đi đc Sudinna đã trả lời mẹ của đi đc Sudinna. Sau đó chng bao lâu, người vợ cũ của đi đc Sudinna đã đến thời kỳ, nàng đã có kinh nguyệt. Khi ấy, người vợ cũ của đi đc Sudinna đã nói với mẹ của đi đc Sudinna điu này: - “Thưa m, con đã đến thời kỳ, kinh nguyệt của con đã xuất hiện.” - “Này con dâu, như thế thì khi trang điểm với đồ trang sức nào mà con đã đưc con trai Sudinna yêu thương quý mến thì con hãy trang điểm với đồ trang sức ấy.” - “Thưa m, xin vâng,” người vợ cũ của đi đc Sudinna đã trả lời mẹ của đi đc Sudinna. Sau đó, mẹ của đi đc Sudinna đã đưa người vợ cũ của đi đc Sudinna đi đến Mahāvana gp đi đc Sudinna, sau khi đến đã nói với đi đc Sudinna điu này: - “Này Sudinna thương, gia đình này thì giàu sang, có nhiều của cải, nhiều tài sản, có vô số vàng bạc, vô số vật dụng, và dồi dào lúa gạo. Này Sudinna thương, con có thể quay trở lại cuộc sống tại gia tầm thưng để thọ hưởng của cải và làm các điu phước thiện đưc mà. Này Sudinna thương, hãy quay về đi con. Hãy quay trở lại cuộc sống tại gia tầm thường, hãy thọ hưởng của cải và làm các điu phước thiện đi.” - “Mẹ à, tôi không thể nào, tôi không dám. Tôi đang thỏa thích thực hành Phạm hạnh.”

 Đến lần thứ nhì, ―(như trên)Đến lần thứ ba, mẹ của đi đc Sudinna đã nói với đi đc Sudinna điu này: - “Này Sudinna thương, gia đình này thì giàu sang, có nhiều của cải, nhiều tài sản, có vô số vàng bạc, vô số vật dụng, và dồi dào lúa gạo. Này Sudinna thương, chính vì điều ấy con hãy để lại chủng tử. Chớ đ các Licchavi đoạt lấy tài sản không người thừa tự của chúng ta.”

21. - “Mẹ à, điều này tôi có thể làm được,” rồi vị ấy đã nắm lấy cánh tay của người vợ cũ đi vào Mahāvana. Trong khi điều học chưa đưc quy định, vị ấy không nhận thức đưc điều nguy hại nên đã tiến hành việc đôi lứa với người vợ cũ ba lần. Do việc ấy, nàng ta đã mang thai.

Chư Thiên  địa cầu đã đn đãi lời rằng: - “Ngài ơi, hội chúng tỳ khưu quả thật không có sự ô uế, không bị điều tai họa, nay Udinna Kalandaputta đã gây nên sự ô uế, đã gây nên điều tai họa!” Sau khi nghe được tiếng đồn của chư Thiên  địa cầu, chư Thiên ở cõi Tứ Đi Thiên Vương đã đn đãi lời rằng: ―(như trên)― chư Thiên ở cõi Đạo Lợi ―(như trên)― chư Thiên ở cõi Dạ Ma ―(như trên)― chư Thiên ở cõi Đẩu Suất ―(như trên)― chư Thiên ở cõi Hóa Lạc Thiên ―(như trên)― chư Thiên ở cõi Tha Hóa Tự Tại ―(như trên)― chư Thiên thuộc hàng Phạm Thiên đã đn đãi lời rằng: - “Ngài ơi, hội chúng tỳ khưu quả thật không có sự ô uế, không bị điều tai họa, nay Udinna Kalandaputta đã gây nên sự ô uế, đã gây nên điều tai họa!” Vào thời khắc ấy vào giây phút ấy, lời đn đãi như thế ấy đã đi đến các cõi trời Phạm Thiên.

22. Sau đó, khi bào thai y đã được phát triển đầy đ, người vợ cũ của đi đc Sudinna đã sanh con trai. Khi ấy, những người bạn của đi đc Sudinna đã đt tên cho đứa bé trai là “Chủng Tử,” đã đt tên cho người vợ cũ của đi đức Sudinna là “Mẹ của Chủng Tử,” và đã đt tên cho đi đức Sudinna là “Cha của Chủng Tử.” Thời gian sau, cả hai mẹ con ấy đã rời nhà xuất gia sống không nhà và đã chứng đắc phẩm vị A-la-hán.[19]

23. Sau đó, đi đc Sudinna đã có sự ăn năn, đã có nỗi ân hận: “Thật là điều không lợi ích đã có cho ta! Thật là điều lợi ích đã không có cho ta! Ta đã đt đưc điều xấu! Ta đã không đt đưc điều tốt! Bởi vì ta đây đã xuất gia trong Pháp và Luật được khéo thuyết giảng như vầy lại không thể thực hành Phạm hạnh thanh tịnh một cách trọn vẹn đến cuối cuộc đời!” Do chính sự ăn năn ấy và do nỗi ân hận ấy, vị ấy đã trở nên ốm o, cằn cỗi, xuống sắc, có vẻ xanh xao, thân hình nổi đầy gân, tâm trở nên lãnh đạm, trì trệ, khổ sở, buồn bã, ăn năn, và có vẻ thờ thẩn.

24. Khi ấy, những vị tỳ khưu bạn của đi đc Sudinna đã nói với đi đc Sudinna điều này: - “Này đi đc Sudinna, trưc đây đi đức có sắc tưng, các căn rạng rỡ, sắc diện an tịnh, màu da trong sáng. Hiện nay, trong lúc này đi đc đây lại trở nên ốm o, cằn cỗi, xuống sắc, có vẻ xanh xao, thân hình nổi đầy gân, tâm trở nên lãnh đạm, trì trệ, khổ sở, buồn bã, ăn năn, và có vẻ thờ thẩn. Này đi đức Sudinna, không lẽ đi đức không thỏa thích thực hành Phạm hành hay sao?”

- “Này các đi đức, không phải tôi không thỏa thích thực hành Phạm hạnh mà tôi đã tạo nên ác nghiệp, tôi đã thực hiện việc đôi lứa với người vợ cũ. Này các đi đc, tôi đây đã có sự ăn năn, đã có nỗi ân hận: ‘Thật là điều không lợi ích đã có cho ta! Thật là điều lợi ích đã không có cho ta! Ta đã đt đưc điều xấu! Ta đã không đt đưc điều tốt! Bởi vì ta đây đã xuất gia trong Pháp và Luật được khéo thuyết giảng như vầy lại không thể thực hành Phạm hạnh thanh tịnh một cách trọn vẹn đến cuối cuộc đời!’”

25. - “Này đi đc Sudinna, đi đức có sự ăn năn là phải lẽ, có nỗi ân hận là phải lẽ. Bởi vì đi đc đã xuất gia trong Pháp và Luật được khéo thuyết giảng như vầy lại không thể thực hành Phạm hạnh thanh tịnh một cách trọn vẹn đến cuối cuộc đời.

26. Này đi đức, chẳng phải đức Thế Tôn bằng nhiều phương thc đã thuyết giảng Pháp đ đưa đến sự không còn tham ái chứ không phải đ đưa đến tham ái, đã thuyết giảng Pháp đ đưa đến sự không còn ràng buộc chứ không phải đ đưa đến sự ràng buộc, đã thuyết giảng Pháp đ đưa đến sự không còn chấp thủ chứ không phải đ đưa đến sự chấp thủ hay sao?

27. Này đi đức, ở đây trong khi đức Thế Tôn thuyết giảng Pháp đ đưa đến sự không còn tham ái thì đi đức lại nghĩ đến tham ái, thuyết giảng Pháp đ đưa đến sự không còn ràng buộc thì đi đức lại nghĩ đến sự ràng buộc, thuyết giảng Pháp đ đưa đến sự không còn chấp thủ thì đi đức lại nghĩ đến sự chấp thủ.

28. Này đi đức, chẳng phải đức Thế Tôn bằng nhiều phương thc đã thuyết giảng Pháp đ đưa đến sự không còn tham ái trong các ái, đ đưa đến sự không còn đam mê trong các ni đam mê, để kềm chế các sự khao khát, để trừ diệt các sự vướng mắc, để cắt đứt vòng tái sanh, để diệt tận ái, đ ly tham, đ đưa đến sự tịch diệt, đ đưa đến Niết Bàn hay sao?

29. Này đi đức, chẳng phải đức Thế Tôn bằng nhiều phương thc đã đề cập đến sự từ bỏ các dục, đã đề cập đến sự hiểu rõ về các dục tưng, đã đề cập đến sự kềm chế các nỗi khao khát về dục, đã đề cập đến sự trừ diệt các dục tầm, đã đề cập đến sự lắng dịu của các nỗi thôi thúc do dục vọng hay sao?

30. Này đi đức, sự việc này không đem lại niềm tin cho những kẻ chưa có đc tin, hay làm tăng thêm niềm tin của những ngưi đã có đc tin. Này đi đc, hơn nữa chính sự việc này đem lại sự không có niềm tin ở những kẻ chưa có đc tin và làm thay đổi (niềm tin) của một số ngưi đã có đức tin.”

31. Sau đó, khi đã khiển trách đi đức Sudinna bằng nhiều phương thức, các vị tỳ khưu y đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn. Khi ấy, đức Thế Tôn nhân lý do ấy nhân sự kiện ấy đã triệu tập hội chúng tỳ khưu li và đã hỏi đi đức Sudinna rằng: - “Này Sudinna, nghe nói ngươi thực hiện việc đôi lứa với người vợ cũ, có đúng không vậy?” - “Bạch Thế Tôn, đúng vy.” Đức Phật Thế Tôn đã khiển trách rằng:

32. - “Này kẻ rồ dại, thật không đúng đắn, không hợp lẽ, không tốt đẹp, không xứng pháp Sa-môn, không được phép, không nên làm! Này kẻ rồ dại, tại sao ngươi đã xuất gia trong Pháp và Luật được khéo thuyết giảng như vầy lại không thể thực hành Phạm hạnh thanh tịnh một cách trọn vẹn đến cuối cuộc đời?

33. Này kẻ rồ dại, không phải Ta bằng nhiều phương thc đã thuyết giảng Pháp đ đưa đến sự không còn tham ái chứ không phải đ đưa đến tham ái, đã thuyết giảng Pháp đ đưa đến sự không còn ràng buộc chứ không phải đ đưa đến sự ràng buộc, đã thuyết giảng Pháp đ đưa đến sự không còn chấp thủ chứ không phải đ đưa đến sự chấp thủ hay sao?

34. Này kẻ rồ dại, thế mà ở đây trong khi Ta thuyết giảng Pháp đđưa đến sự không còn tham ái thì ngươi li nghĩ đến tham ái, thuyết giảng Pháp đ đưa đến sự không còn ràng buộc thì ngươi li nghĩ đến sự ràng buộc, thuyết giảng Pháp đ đưa đến sự không còn chấp thủ thì ngươi li nghĩ đến sự chấp thủ.

35. Này kẻ rồ dại, không phải Ta bằng nhiều phương thc đã thuyết giảng Pháp đ đưa đến sự không còn tham ái trong các ái, đ đưa đến sự không còn đam mê trong các ni đam mê, để kềm chế sự khao khát, để trừ diệt sự vướng mắc, để cắt đứt vòng tái sanh, để diệt tận ái, để ly tham, đ đưa đến sự tịch diệt, đ đưa đến Niết Bàn hay sao?

36. Này kẻ rồ dại, không phải Ta bằng nhiều phương thc đã đề cập đến sự từ bỏ các dục, đã đề cập đến sự hiểu rõ về các dục tưng, đã đề cập đến sự kềm chế các nỗi khao khát về dục, đã đề cập đến sự trừ diệt các dục tầm, đã đề cập đến sự lắng dịu của các nỗi thôi thúc do dục vọng hay sao?

37. Này kẻ rồ dại, thà ngươi đt dương vật vào trong miệng của con rắn có nọc độc khủng khiếp còn là điu cao thưng, nhưng đt dương vật vào trong âm vật của người nữ là không (cao thượng). Này kẻ rồ dại, thà ngươi đt dương vật vào trong miệng của con hắc xà còn là điu cao thưng, nhưng đt dương vật vào trong âm vật của người nữ là không (cao thượng). Này kẻ rồ dại, thà ngươi đt dương vật vào trong hố than đưc đốt cháy có ngọn lửa sáng rực còn là điu cao thượng, chớ đt dương vật vào trong âm vật của người nữ là không (cao thưng). Điều ấy có lý do như thế nào? Này kẻ rồ dại, bởi vì do nguyên nhân kia[20] ngươi có th đi đến cái chết hoặc khổ gần như chết, nhưng không vì nguyên nhân kia, khi tan rã thân xác và chết đi ngươi lại có thể bị sanh vào bất hạnh, cõi khổ, đọa xứ, địa ngục. Này kẻ rồ dại, quả thật do nguyên nhân này,[21] khi tan rã thân xác và chết đi, ngươi có thể bị sanh vào bất hạnh, cõi khổ, đọa xứ, địa ngục.

38. Này kẻ rồ dại, thế mà ở đây li là ngươi, tức là việc ngươi b vướng vào việc kết hợp của hai người, theo từng cặp, ở nơi kín đáo, là việc làm không tốt đẹp, là việc làm của các dân làng, là việc làm của những người thấp kém, là xấu xa, kết cuộc phải dùng nước tẩy rửa. Này kẻ rồ dại, đối với nhiều pháp bất thiện ngươi là người vi phạm đu tiên, trước tất cả. Này kẻ rồ dại, sự việc này không đem lại niềm tin cho những kẻ chưa có đc tin, hay làm tăng thêm niềm tin của những ngưi đã có đức tin. Này kẻ rồ dại, hơn nữa chính sự việc này đem lại sự không có niềm tin ở những kẻ chưa có đc tin và làm thay đổi (niềm tin) của một số ngưi đã có đức tin.”

39. Sau đó, khi đã khiển trách đi đức Sudinna bằng nhiều phương thc, đức Thế Tôn đã chê bai về sự khó khăn trong việc cấp dưỡng, sự khó khăn trong vic ăn uống, sự tầm cầu quá nhiều, sự không biết đủ, sự kết phe nhóm, sự biếng nhác; và bằng nhiều phương thc Ngài đã ngợi khen về sự dễ dàng trong việc cấp dưỡng, sự dễ dàng trong việc ăn uống, sự ít tầm cầu, sự biết đủ, sự từ khước, sự tiết chế, sự hài hòa, sự đoạn giảm, sự ra sức nỗ lực. Ngài đã nói Pháp thoại thích đáng và phù hợp cho các tỳ khưu ri đã bảo các tỳ khưu rằng:

40. - “Này các tỳ khưu, như thế thì Ta sẽ quy đnh điều học cho các tỳ khưu vì mưi điều lợi ích: Nhằm sự tốt đẹp cho hội chúng, nhằm sự an lạc cho hội chúng, nhằm việc trấn áp những nhân vật ác xấu, nhằm sự lạc trú của các tỳ khưu hiền thiện, nhằm ngăn ngừa các lậu hoặc trong hiện tại, nhằm sự trừ diệt các lậu hoặc trong tương lai, nhằm đem lại niềm tin cho những kẻ chưa có đức tin, nhằm tăng thêm niềm tin của những ngưi đã có đức tin, nhằm sự tồn tại của Chánh Pháp,[22] và nhằm sự hỗ trợ Luật. Và này các tỳ khưu, các ngươi nên phổ biến điều học này như vầy:

Vị tỳ khưu nào thực hiện việc đôi lứa là vị phạm tội pārājika, không được cộng trú.”[23]

Và điều học này đã đưc đức Thế Tôn quy định cho các tỳ khưu như thế.

[Sự quy đnh căn bản]

Dứt tụng phẩm về Sudinna.

--ooOoo--

[16] Dịch sát từ sẽ là: “Sau khi nhìn thấy, điều này đã khởi đến anh ta: ...”

[17] Y paṃsukūla: y được may bằng vải dơ b ngưi ta quăng b, thông thường là vải quấn tử thi được tìm thấy ở bãi tha ma (ND).

[18] Ngài Buddhaghosa giải thích ở Chú Giải Samantapāsādikā rằng đã tám năm trôi qua nên người nữ tỳ không thể nhận ra đi đức Sudinna mà chỉ nhận biết qua các đc điểm của tay, chân, và giọng nói. Thêm vào đó còn cho biết vị Sudinna đã xuất gia vào năm th mười hai của đức Thế Tôn và thời điểm xảy ra câu chuyện này là năm th hai mươi (VinA. i, 208).

[19] Theo ngài Buddhaghosa cho biết, hai mẹ con đã xuất gia sau đó khoảng bảy hoặc tám năm (VinA. i,215).

[20] Là việc đt dương vật vào trong miệng của con rắn có nọc độc khủng khiếp, vào trong miệng của con hắc xà, vào trong hố than đưc đốt cháy có ngọn lửa sáng rực (ND).

[21] Là việc đt dương vật vào trong âm vật của người nữ (ND).

[22] Chánh Pháp (saddhamma): Ngài Buddhaghosa giải thích saddhamma gồm có ba phần: Pariyattisaddhamma (Pháp Học) gồm tất cả các lời dạy của đức Phật đã được kết tập thành Tam Tạng,Paṭipattisaddhamma (Pháp Hành) là 13 pháp Đu-đà, 14 pháp hành, 82 phận sự chính, Giới, Định, và Minh Sát, Adhigamasaddhamma (Pháp Đắc Chứng) là 4 Đạo, 4 Quả, và Niết Bàn (VinA. i, 225). Giải thích về 82 phận sự chính īkā (Sớ Giải) ghi rằng: 66 phận sự của vị hành parivāsa (bắt đầu với điều “Không nên ban phép tu lên bậc trên, ..., không nên đi kinh hành  đường kinh hành trong khi vị tỳ khưu trong sch đi kinh hành ở trên mặt đất”); không ngụ chung với 5 hạng tỳ khưu (vị cũng thực hànhparivāsa nhưng thâm niên hơn, vị xứng đáng (thực hành) trở lại từ đầu, vị tỳ khưu xng đáng hành mānatta, vị đang thực hành mānatta, vị xứng đáng sự giải tội) tính là 5 điều thành 71; “không nên tiếp nhận sự đảnh lễ, sự đứng dậy, ..., sự kỳ cọ lưng trong khi tắm của các vị tỳ khưu trong sch” tính là 1 điều thành 72; “không nên bôi nhọ vị tỳ khưu trong sạch với sự hư hỏng về giới, v.v...” tính là 10 điều; tổng cộng là 82 phận sự.

[23] Từ “bất cộng trụ” đã được sử dụng quen thuộc khi đề cập đến tội pārājika. Thật ra, “bất cộng trụ” là từ dịch của asaṃvāso trong câu “ayampi pārājiko hoti asavāso,” chứ không phải của pārājika. Pārājikađược xem là tên của tội, còn asaṃvàso có thể xem như là một hình thức xử lý tội pārājika, là không được sống chung và tiến hành các hành sự như là lUposatha, lễ Parāraā, v.v... Ngài Buddhaghosa chỉ ra động từ liên quan là “parājeti = khuất phục, đánh bại, chế ngự, chiến thắng” và giải thích rằng vị “pārājiko” là vị “parājito,” (parājito là quá khứ phân từ thể thụ động của parājeti, có nghĩa là: bị khuất phục, bị đánh bại, bị chế ngự). Như vậy, pārājika có nghĩa là “kẻ thất trận, kẻ bại trận người thua cuộc” và được sử dụng cho tên của một loại tội cực nặng trong giới bổn Pātimokkha của tỳ khưu gm 4 điu được trình bày trong chương này. Chúng tôi giữ nguyên từ pārājika không dịch.

[24] Nguyên nhân kia đã được giải thích ở phần trước.

[25] Nguyên nhân này là việc đt dương vật vào trong âm vật của con khỉ cái (ND).

[26] Adhisīla: Tăng thượng giới là giới bổn Pātimokkha. Adhicitta: Tăng thượng tâm là sự tu tập các loại định hợp thế. Adhipaññā: Tăng thượng tuệ là sự tu tập (các tâm) Đạo Siêu Thế (VinA. i, 244-245).

[27] Từ Pāli paṇḍaka là đề cập đến người phái nam. Về phái nữ, các từ được tìm thấy là paṇḍikā, itthipaṇḍikā, itthipaṇḍaka. Từ tiếng Anh tương đương là eunuch được dịch sang tiếng Việt là “hoạn quan, thái giám.” Từ “bị thiến” đã đưc dùng đến trong một số bản dịch trưc đây. Lâu nay, chúng tôi hiểu theo ý nghĩa thông thưng đó. Gần đây, chúng tôi tìm thấy từ jātipaṇḍaka mới biết thêm được là có hạng người paṇḍaka bẩm sanh. Dựa theo phần giảng giải của giới pārājika thứ nhất này, chúng tôi có được khái niệm là hạng này không có bộ phận sinh dục, còn việc xác định nam hay nữ là do các đc tính khác như vóc dáng, bộ ngực, giọng nói, v.v... Về tâm sinh lý, trong Mahāvagga - Đại Phẩm thuộc tạng Luật có câu chuyện đề cập đến bản chất ham muốn về nhục dục của hạng người này. Chúng tôi tạm dịch là “vô căn” cho hng người không có bộ phận sinh dục này cho dù là bẩm sinh hay bị thiến.

[28] Bhikkhupaccatthikā được īkā (Sớ Giải) giải thích là “các kẻ đối nghịch của tỳ khưu,” còn ngài Buddhaghosa thiên về ý “các tỳ khưu đối nghịch.” Theo văn phạm, hai cách dịch trên đều có khả năng tùy theo cách phân tích hợp từ bhikkhupaccatthikā là tappurisa hay kammadhāraya. Sự chọn lựa của ngài Buddhaghosa có phần hợp lý hơn, xin xem giải thích ở phần kế.

[29] Nếu ở trên dịch hợp từ bhikkhupaccatthikā là “các kẻ đối nghịch của tỳ khưu” thì ở đây phải dịch rājapaccatthikā là “các kẻ đối nghịch của vị vua” xét ra không hợp lý. Chính vì ở đây phải dịch là “các vị vua đối nghịch” nên có thể xác định ý nghĩa cho từ bhikkhupaccatthikā ở trên là “các tỳ khưu đối nghịch.”

[30] Lúc này, vị tỳ khưu ni Uppalavaṇṇa đã là vị A-la-hán. Còn người thanh niên ấy khi vừa đi khuất tầm mắt của vị tỳ khưu ni thì quả địa cầu đã nứt tạo ra lỗ hổng hút vào lòng đt như thể quả địa cầu này không thể nâng đỡ nỗi kẻ độc ác ấy. Anh ta lập tức bị đa vào địa ngục Avīci và ở vào trạng thái bị lửa địa ngục thiêu đốt (VinA. i, 273)

[31] Ngài Buddhaghosa giải thích rằng vị này đẹp trai (sundara) và là vị Bất Lai nên không còn ưa thích về việc đôi lứa (VinA. i, 278).



Phiên bản thư viện demo v4.5 [Tipiṭaka Tiếng Việt] Theravada