LỜI GIỚI THIỆU
Tạng Luật (Vinayapiṭaka) thuộc về Tam Tạng (Tipiṭaka) là những lời dạy và quy định của đức Phật về các vấn đề có liên quan đến cuộc sống và sự sinh hoạt của các thành viên cũng như các công việc của hội chúng, trong đó chủ yếu đề cập đến tỳ khưu, một phần dành cho tỳ khưu ni, đồng thời một số vấn đề có thể áp dụng cho hàng tại gia cư sĩ cũng được tìm thấy.
Tạng Luật được chia làm 3 phần chính: Suttavibhaṅga, Khandhaka, và Parivāra.
SUTTAVIBHAṄGA (Phân Tích Giới Bổn): trình bày về giới bổn Pātimokkha của tỳ khưu gồm có 227 điều và của tỳ khưu ni gồm có 311 điều. Suttavibhaṅga được chia làm hai:
– Pārājikapāḷi (Bộ Pārājikapāḷi): Mở đầu là Chương Verañjā giới thiệu việc ngài Sāriputta thỉnh cầu đức Phật quy định giới ở xứ Verañjā. Kế đến là các chương ghi lại các điều học theo thứ tự:
– 4 Pārājika (bất cộng trụ)
– 13 Saṅghādisesa (tăng tàng)
– 2 Aniyata (bất định)
– 30 Nissaggiya Pācittiya (ưng xả đối trị)
– Pācittiyapāḷi (Bộ Pācittiyapāḷi): Nội dung bộ này gồm có:
– 92 Pācittiya (ưng đối trị)
– 4 Pāṭidesanīya (ưng phát lộ)
– 75 Sekhiyā dhammā (ưng học pháp)
– 7 Adhikaraṇasamathā dhammā (các pháp dàn xếp tranh tụng)
– Bhikkhunīvibhaṅga (Phân Tích Giới Tỳ Khưu Ni).
KHANDHAKA (Hợp Phần): gồm các vấn đề có liên quan đã được sắp xếp thành từng chương. Khandhaka được chia làm hai:
– Mahāvagga (Đại Phẩm): gồm 10 chương, mở đầu là sự chứng ngộ đạo quả của đức Phật, kế đến là các nhiệm vụ quan trọng của các tỳ khưu như lễ xuất gia, lễ Uposatha (Bố Tát), việc an cư mùa mưa, lễ Pavāraṇā (Tự Tứ), v.v…
– Cullavagga (Tiểu Phẩm): gồm 12 chương đề cập đến việc hành xử các tỳ khưu phạm tội, giải quyết các sự tranh tụng, việc chia rẽ hội chúng, và các vấn đề khác liên quan đến đời sống xuất gia. Đặc biệt chương 10 đề cập việc xuất gia của tỳ khưu ni và hai chương cuối 11 và 12 nói về hai lần kết tập Tam Tạng đầu tiên ở Ấn Độ.
PARIVĀRA (Tập Yếu): phân tích về Giới và Luật theo các tiêu đề và được trình bày dưới dạng vấn đáp, có thể được xem như là cuốn cẩm nang hướng dẫn việc hành xử Luật.
***
Dựa theo văn bản được ghi lại bằng mẫu tự Pāḷi – Sinhala thuộc ấn bản Buddha Jayanti Tripitaka Series của nước quốc giáo Sri Lanka, Công Trình Ấn Tống Tam Tạng Pāḷi – Việt trình bày Suttavibhaṅga (Phân Tích Giới Bổn) thành 3 tập:
– Phân Tích Giới Tỳ Khưu tập 1: tức là bộ Pārājikapāḷi trình bày từ chương mở đầu Verañjā cho đến hết 3o điều nissaggiya pācittiya. Để thuận tiện, các cuốn Tạng được thực hiện bởi Công Trình Ấn Tống Tam Tạng Pāḷi – Việt sẽ sử dụng từ viết tắt như sau: “TTPV 01” thay cho cụm từ “Tam Tạng Pāḷi – Việt tập 01,” và cứ thế tiếp tục cho đến tập TTPV 58 căn cứ theo bản Lược Đồ Tam Tạng ở hai trang xviii và xix.
– Phân Tích Giới Tỳ Khưu tập 2: (TTPV 02) tức là phần đầu của bộ Pācittiyapāḷi gồm những phần còn lại có liên quan đến tỳ khưu, từ các điều học Pācittiya cho đến phần Adhikaraṇasamathā dhammā (các pháp dàn xếp tranh tụng). Tên gọi Bhikkhuvibhaṅga chung cho cả hai tập này được căn cứ vào dòng chữ kết thúc “bhikkhuvibhaṅgo niṭṭhito.”
– Phân Tích Giới Tỳ Khưu Ni: (TTPV 03) trình bày các điều học được quy định dành riêng cho tỳ khưu ni có tên là Bhikkhunīvibhaṅga. Tuy nhiên, để tránh sự trùng lặp cho nên các điều học được quy định chung cho tỳ khưu và tỳ khưu ni đã không được đề cập đến vì đã có trình bày ở Bhikkhuvibhaṅga – Phân Tích Giới Tỳ Khưu. Muốn biết đầy đủ 311 điều học của tỳ khưu ni cần phải xem Bhikkhunipātimokkha tức là giới bổn Pātimokkha của tỳ khưu ni. Văn bản này cũng đã được chúng tôi thực hiện dưới dạng song ngữ Pāḷi – Việt.
Ý nghĩa của từ sutta ở nhóm từ suttavibhaṅga có ý nghĩa tương đương như là sikkhāpada (điều học, học giới, điều giới, …), nếu xét theo ý nghĩa bao quát có thể gọi là “giới bổn.” Như vậy, suttavibhaṅga nghĩa là sự phân tích các điều học hoặc là sự phân tích về giới bổn; trong khi ở Tạng Kinh, từ sutta được dịch là “kinh” ví dụ như Brahmajālasutta được dịch là Kinh Phạm Võng, v.v…
Về nội dung của Vinayapiṭaka – Tạng Luật, chương mở đầu Verañjā trình bày về thời điểm quy định điều học cho các tỳ khưu. Trả lời sự thỉnh cầu của ngài Sāriputta (Xá Lợi Phất), đức Phật đã phán rằng: “Này Sāriputta, ngươi hãy chờ đợi! Này Sāriputta, ngươi hãy chờ đợi! Trong trường hợp này, chỉ có Như Lai mới biết thời điểm.” Và ngài đã xác định về thời điểm đó như sau: “Này Sāriputta, chính bởi vì một số pháp đưa đến lậu hoặc xuất hiện trong hội chúng này … chính bởi vì hội chúng đạt đến sự đông đảo về số lượng … chính bởi vì hội chúng đạt đến sự lớn mạnh về việc phát triển … chính bởi vì hội chúng đạt đến sự dồi dào về lợi lộc nên một số pháp đưa đến lậu hoặc xuất hiện trong hội chúng này, nên bậc Đạo Sư quy định điều học và công bố giới bổn Pātimokkha cho các đệ tử nhằm diệt trừ chính các pháp đưa đến lậu hoặc ấy.”
Đến các chương kế tiếp, chúng ta biết được rằng mỗi khi điều học được quy định, trước tiên có sự chỉ trích và chê bai về việc làm hay lời nói nào đó của các vị xuất gia, việc chỉ trích và chê bai lan rộng khiến các tỳ khưu nghe được và cuối cùng đến tai đức Phật. Đối tượng vi phạm trong các câu chuyện này có thể là cá nhân hay nhóm tỳ khưu, không hẳn là phàm nhân mà ngay cả một số vị đã chứng được thiền và thần thông như các vị Devadatta và Sāgata, một vài trường hợp do các bậc đã chứng Thánh quả như ngài Anuruddha về việc nằm chung chỗ ngụ với người nữ, ngài Cūḷapanthaka về việc giáo huấn các tỳ khưu ni khi mặt trời đã lặn, hoặc ngài Veḷaṭṭhasīsa về việc thọ dụng vật thực đã tích trữ. Về các sự chỉ trích và chê bai, đa số phát xuất từ hàng tại gia có thể là các cư sĩ đã quy y, những người theo ngoại đạo, hoặc quần chúng bình thường, kế đến do các vị đã xuất gia, chỉ một vài trường hợp do phi nhân hạng trên hoặc dưới. Thông thường, đức Phật triệu tập các tỳ khưu lại, xác định vấn đề, khiển trách và giáo huấn, rồi mới quy định điều học. Mỗi lần như vậy, đức Phật luôn khẳng định về mười điều lợi ích của việc làm ấy như sau: “Nhằm sự tốt đẹp cho hội chúng, nhằm sự an lạc cho hội chúng, nhằm việc trấn áp những nhân vật ác xấu, nhằm sự lạc trú của các tỳ khưu hiền thiện, nhằm ngăn ngừa các lậu hoặc trong hiện tại, nhằm sự trừ diệt các lậu hoặc trong tương lai, nhằm đem lại niềm tin cho những kẻ chưa có đức tin, nhằm tăng thêm niềm tin của những người đã có đức tin, nhằm sự tồn tại của Chánh Pháp, và nhằm sự hỗ trợ Luật.” Có nhiều trường hợp, điều học đã được quy định thêm (anupaññatti), có trường hợp mức độ nghiêm khắc trong việc thực hành càng gia tăng, có trường hợp được giảm nhẹ do nhu cầu cần thiết ví dụ như tỳ khưu bị bệnh có thể thọ thực ở phước xá hơn một lần hoặc vị tỳ khưu có thể hẹn trước rồi đi chung với tỳ khưu ni ở đoạn đường có nguy hiểm hoặc chung chuyến đò lúc sang sông. Sau phần quy định về điều học, có phần phân tích về từ ngữ và về các trường hợp vi phạm hoặc không vi phạm. Phần này cần xem xét kỹ lưỡng mới có thể hiểu được điều học thêm phần chính xác. Ngoài ra, có phần các câu chuyện dẫn giải ở bốn điều học pārājika và năm điều học đầu của saṅghādisesa gồm những sự việc cụ thể giúp cho hiểu rõ hơn về trường hợp vi phạm tội. Khi đọc các câu chuyện này nên liên hệ với phần phân tích ở phía trước để thấy được sự phán quyết của đức Phật. Một điều quan trọng cần lưu ý rằng đối tượng chính của các điều học này là hạng tỳ khưu và tỳ khưu ni đã được tu lên bậc trên bằng hành sự với lời thông báo đến lần thứ tư, đầu tiên là vị Bà-la-môn đã được ngài Sāriputta tế độ do việc bố thí một muỗng thức ăn (Mahāvagga – Đại Phẩm, TTPV 04, chương I, 120-121).
Trong việc nghiên cứu Tam Tạng Pāli, các bộ Chú Giải Aṭṭhakathā liên quan cũng cần được xem xét để có thể hiểu đúng những điều đã được kết tập thuộc về Chánh Tạng; ngoài ra còn có các bộ Sớ Giải Ṭīkā phân tích về những điểm cần giải thích thêm hoặc chưa được giải thích trong Chú Giải Aṭṭhakathā, sau đó mới nói đến các bộ sách được soạn thảo theo chuyên đề. Theo tinh thần đó, trong khi nghiên cứu về Tạng Luật, chúng tôi đã tham khảo và hiểu theo lời giải thích của ngài Buddhaghosa ở bộ Chú Giải Samantapāsādikā. Ngài Buddhaghosa được xem là nhà Chú Giải Sư vĩ đại, vĩ đại vì ngài là người đầu tiên tổng hợp lại các bộ Chú Giải đã có trước, cũng có thể do số lượng tài liệu ngài đã thực hiện là nhiều hơn so với các nhà chú giải khác, cũng có thể vì ngài đã soạn nên bộ sách nổi tiếng Visuddhimagga (Thanh Tịnh Đạo) được xem như đã cô đọng lại những gì tinh hoa của lời Phật dạy. Ngài Buddhaghosa đã hoàn tất phần chú giải về Tạng Luật và Tạng Diệu Pháp. Về Tạng Kinh, ngài đã hoàn tất phần chú giải của Kinh Trường Bộ, Kinh Trung Bộ, Kinh Tương Ưng Bộ, Kinh Tăng Chi Bộ, và một số thuộc về Kinh Tiểu Bộ. Cuộc đời của ngài chỉ được ghi lại ngắn gọn trong nhiều tài liệu, văn bản cổ nhất được biết đến là Mahāvaṃsa (chương 37) là bộ sử ký của xứ Sri Lanka được ghi lại bằng ngôn ngữ Pāli. Ngài Buddhaghosa sanh ở vùng lân cận của Bodh Gayā (nơi đức Phật thành đạo) ở Ấn Độ vào khoảng thế kỷ thứ 5 sau Tây Lịch. Ngài xuất thân dòng dõi Bà-la-môn và thông thạo ba bộ Vệ Đà, lúc còn thanh niên thường đi đó đây để tranh luận, do bị thua ngài Revata nên đã xin xuất gia và trở thành tỳ khưu. Khi thấy được ước nguyện của người học trò về việc soạn thảo các bộ chú giải Tam Tạng, ngài Revata đã gợi ý nên sang đảo Laṅkā (Sri Lanka ngày nay) vì toàn bộ kinh điển và chú giải được ngài Mahinda đem sang truyền giáo ở đó (thế kỷ thứ 3 trước Tây Lịch) vẫn được lưu truyền và phát triển. Tại đảo Laṅkā, trước tiên ngài Buddhaghosa đã soạn bộ Visuddhimagga (Thanh Tịnh Đạo) rồi trình lên các ngài trưởng lão ở Mahāvihāra (Đại Tự) để chứng tỏ khả năng và sau đó đã được phép sử dụng các tài liệu lưu trữ trong tu viện phần nhiều bằng tiếng địa phương (ngôn ngữ Sīhaḷa) để thực hiện việc tổng hợp lại các bộ chú giải và dịch sang ngôn ngữ của xứ Magadha (māgadhānaṃ niruttiyā) nhằm đem lại lợi ích cho tất cả thế gian (ngôn ngữ sử dụng trong Tipiṭaka (Tam Tạng) mới được các nhà học giả phương Tây gọi là ngôn ngữ Pāli vào thời gian sau này). Sau khi thực hiện các công trình trên, ngài Buddhaghosa đã rời đảo Laṅkā để trở về đảnh lễ cội Đại Bồ Đề ở quê hương. Nghe đâu, có các tài liệu khác cho rằng ngài Buddhaghosa qua đời ở Miến Điện, có tài liệu nói ở Cam-pu-chia.
Về phương diện dịch thuật và trình bày văn bản tiếng Việt, có một số điều cần lưu ý như sau: Về phương diện từ ngữ có tính cách chuyên môn như tên các điều học pārājika, saṅghādisesa, tên của lễ Uposatha, Pavāraṇā, v.v… chúng tôi đã giữ nguyên từ Pāli. Việc làm này xuất phát từ nhiều nguyên nhân: Chúng tôi ngại việc sáng tạo thêm tên gọi mới e rằng có thể làm rối trí những độc giả vốn đã có sự hiểu biết về Luật của Phật Giáo. Hơn nữa, việc biết và nhớ được một số từ có tính cách chuyên môn của ngôn ngữ này sẽ tiện cho công việc trao đổi kiến thức tránh sự nhầm lẫn, nhất là lúc tiếp xúc với các tu sĩ hoặc học giả người ngoại quốc. Chúng tôi cũng tránh việc sử dụng theo thói quen một số từ được ghi lại theo âm của tiếng Hán xét rằng không có lợi ích ví dụ như: ba-la-di (pārājika), tăng-già-bà-thi-sa (saṅghādisesa), đột-kiết-la (dukkaṭa), bố-tát (uposatha), Xá Lợi Phất (Sāriputta), Xa Nặc (Channa), v.v…; hoặc tránh sự vay mượn tiếng Hán khó hiểu ví dụ như từ Tự Tứ (pavāraṇā), v.v… Cũng có một số từ được ghi bằng tiếng Pāli do chúng tôi không tìm ra được nghĩa của chúng như trường hợp tên các loại thảo mộc.
Ngoài ra, chúng tôi cũng mạo muội Việt hóa một số từ Hán đã trở nên quá quen thuộc nghĩ rằng khó có sự thay đổi trong tương lai, ví dụ như từ Thế Tôn (Bhagavā), tỳ khưu (bhikkhu), tỳ khưu ni (bhikkhunī), sa di (sāmaṇera), v.v… Riêng từ tỳ khưu (hay tỷ khưu, tỳ kheo, tỷ kheo) đều được âm từ ngôn ngữ Sanskrit là từ bhikṣu hay Pāli là từ bhikkhu. Về từ tiếng Việt có liên quan đến phái nữ xuất gia như cô ni, ni sư, v.v… có thể đã được du nhập vào tiếng Việt từ tiếp vĩ ngữ “ni” trong bhikṣuṇī hoặc bhikkhunī.
Thêm vào đó, chúng tôi cũng đã sử dụng dạng chữ nghiêng cho một số câu hoặc đoạn văn nhằm gợi sự chú ý của người đọc về tầm quan trọng của ý nghĩa hoặc về tính chất thực dụng của chúng. Riêng về các câu kệ ngôn, chúng tôi đã ghi nghĩa Việt bằng văn xuôi nhằm diễn tả trọn vẹn ý nghĩa của văn bản gốc.
Về văn phong của lời dịch, chúng tôi chủ trương ghi lại lời tiếng Việt sát theo văn bản gốc và cố gắng không bỏ sót từ nào không dịch. Lời văn tiếng Việt của chúng tôi có chứa đựng những mấu chốt giúp cho những ai có ý thích nghiên cứu Pāḷi thấy ra được cấu trúc của loại ngôn ngữ này. Việc làm này của chúng tôi không hẳn đã được hoàn hảo, dẫu sao cũng là bước khởi đầu nhằm thúc đẩy phong trào nghiên cứu cổ ngữ Phật Học của người Việt Nam. Tuy nhiên, một số sai sót trong quá trình phiên dịch đương nhiên không thể tránh khỏi, chúng tôi xin chịu hoàn toàn trách nhiệm về trình độ yếu kém.
Nhân đây, chúng tôi cũng xin chân thành ghi nhận sự quan tâm chăm sóc trực tiếp hoặc gián tiếp đối với công tác phiên dịch của chúng tôi về phương diện vật thực bồi dưỡng và thuốc men chữa bệnh của các vị hữu ân sau: Cô Phạm Thu Hương (Hồng Kông) và Phật tử Ngô Lý Vạn Ngọc (Việt Nam). Công việc soạn thảo này được thông suốt, không bị gián đoạn, chính là nhờ có sự hỗ trợ cấp thời và quý báu của quý vị. Thành tâm cầu chúc quý vị luôn giữ vững niềm tin và thành tựu được nhiều kết quả trong công việc tu tập giải thoát và hộ trì Tam Bảo.
Một điều thiếu sót lớn nếu không đề cập đến sự nhiệt tình giúp đỡ của Phật tử Tung Thiên cùng với hai người bạn là Đông Triều và Hiền đã sắp xếp thời gian để đọc qua bản thảo và đã đóng góp nhiều ý kiến sâu sắc giúp cho chúng tôi tránh được một số điểm vụng về trong việc sử dụng từ ngữ tiếng Việt. Nhân đây, cũng xin ghi nhận sự cúng dường cuốn Từ Điển Tiếng Việt của Đại Đức Tâm Pháp, nhờ thế đã giúp cho chúng tôi rất nhiều trong việc xác định từ ngữ được thêm phần chuẩn xác. Chúng tôi cũng xin thành tâm tùy hỷ và tán dương công đức của các thí chủ đã nhiệt tâm đóng góp tài chánh giúp cho Công Trình Ấn Tống Tam Tạng Song Ngữ Pāḷi – Việt được tồn tại và phát triến, mong sao phước báu Pháp thí này luôn dẫn dắt quý vị vào con đường tu tập đúng theo Chánh Pháp, thành tựu Chánh Trí, chứng ngộ Niết Bàn, không còn luân hồi sanh tử nữa.
Nhân đây, cũng xin thành kính tri ân công đức của Ven. Wattegama Dhammawasa, Sanghanāyaka ở Australia và cũng là Tu Viện Trưởng tu viện Sri Subodharama Buddhist Centre ở Peradeniya – Sri Lanka, đã cung cấp trú xứ cho chúng tôi ở Khu Ẩn Lâm Subodha, dưới chân núi Ambuluwawa, Gampola, cách thủ đô Colombo khoảng 150 cây số. Điều kiện yên tĩnh và khí hậu mát mẻ trong lành ở đây đã giúp cho chúng tôi rất nhiều trong việc chú tâm và kiên trì thực hiện bản soạn thảo của các tập Luật. Cũng không quên nhắc đến sự phục vụ và chăm sóc về mọi mặt, nhất là vật thực của ba vị cư sĩ người Sri Lanka là Gunavardhana, Jayampati, Dayānanda ở trú xứ này đã giúp cho chúng tôi có thể tập trung toàn thời gian cho công việc phiên dịch này.
Cuối cùng, ngưỡng mong phước báu phát sanh trong công việc soạn thảo tập Kinh này được thành tựu đến thầy tổ, song thân, và tất cả chúng sanh trong tam giới. Nguyện cho hết thảy đều được an vui, sức khỏe, có trí tuệ, và tinh tấn tu tập ngõ hầu thành đạt cứu cánh giải thoát, chấm dứt khổ đau.
Kính bút, ngày 15 tháng 01 năm 2009
Tỳ Khưu Indacanda (Trương Đình Dũng)
CÁC TỪ CHUYÊN MÔN
Một số từ chuyên môn cùng với các từ dịch nghĩa hoặc dịch âm bởi các dịch giả khác đã được trích lục và ghi lại dưới đây:
– Pātimokkha: giới bổn Ba-la-đề-mộc-xoa, biệt biệt giải thoát giới.
– Pārājika: tội bất cộng trụ, ba-la-di, triệt khai, ba-la-thị-ca, giới khí.
– Saṅghādisesa: tội tội tăng tàn, tăng tàng, tăng-già-bà-thi-sa, tăng-già-phạt-thi-sa.
– Aniyata: tội bất định.
– Nissaggiya pācittiya: tội ưng xả đối trị, ni-tát-kỳ-ba-dật-đề, ni-tát-kỳ-ba-dật-để-ca, giới xả đọa.
– Pācittiya: tội ưng đối trị, ba-dật-đề, ba-dật-để-ca, giới đọa.
– Pāṭidesanīya: tội ưng phát lộ, ba-la-đề đề-xá-ni, ba-dạ-đề, ba-la-để-đề-xá-ni, giới hối quá.
– Sekhiya dhamma: ưng học pháp, chúng-học-pháp, pháp chúng học, giới học.
– Adhikaraṇa dhamma: pháp diệt tranh, pháp diệt-tránh, pháp điều giải.
– Thullaccaya: trọng tội, tội thâu lan giá.
– Dukkaṭa: tội tác ác, đột cát la.
– Dubbhāsita: tội ác khẩu.
– Parivāsa: phạt biệt trú.
– Mānatta: hành tự hối.
– Abbhāna: phục vị.
– Uposatha: lễ Bố Tát.
– Pavāraṇā: lễ Tự Tứ.
CÁC CHỮ VIẾT TẮT
VinA. : Vinaya Aṭṭhakathā (Samantapāsādikā) – Chú Giải Tạng Luật (PTS)
ND : Chú thích của Người Dịch
PTS : Nhà Xuất Bản Pali Text Society (Anh Quốc)
Sđd. : Sách đã dẫn
TTPV : Tam Tạng Pāḷi – Việt
Phiên bản thư viện demo v4.5 [Tipiṭaka Tiếng Việt] Theravada