LỜI GIỚI THIỆU

Vinayapiṭaka - Tạng Luật gồm có 3 phần chính là: Suttavibhaṅga - Phân Tích Giới Bổn, Khandhaka - Hợp Phần, và Parivāra - Tập Yếu.

Khandhaka - Hợp Phần: Gồm các vấn đề có liên quan với nhau đã được sắp xếp thành từng khandhaka, có thể dịch là chương hay phần. Toàn bộ gồm có 22 khandhaka và được chia làm hai:

- Mahāvagga - Đại Phẩm gồm có 10 khandhaka, và

- Cullavagga - Tiểu Phẩm gồm có 12 khandhaka còn lại.

Mahāvagga - Đại Phẩm được trình bày thành hai tập, mỗi tập có 5 chương. Phần tóm tắt năm chương đu đã được trình bày ở tập 1. Và năm chương còn lại thuộc Mahāvagga 2 & Đại Phẩm 2 (TTPV 05, Tam Tạng Pāḷi - Việt tập 05) có nội dung tóm lưc như sau:

- Chương 6 nói v dược phẩm và các cách thức chữa bệnh. Chương này gồm có 4 tụng phẩm đề cập đến cách thức chữa trị một số bệnh thông thường, về một số quy đnh đã được áp dụng trong thời kỳ khó khăn về vật thực, về đức tin vững chắc của nữ cư sĩ Suppiyā, về vấn đề thọ dụng cá và thịt trong Phật Giáo, ngoài ra còn có câu chuyện về kỹ nữ Ambapālī và một số vấn đề khác vẫn còn có được sự ứng dụng thực tiễn trong thời hiện tại.

- Chương 7 giảng giải về lễ dâng y Kaṭhina. Đây là cuc phước thí có tầm vóc quan trọng vì sự thành tựu của Kaṭhina không những có ảnh hưng đến phước báu của người thí chủ mà còn có liên quan đến sự tu tập của các vị tỳ khưu. Sự giảng giải chi tiết với những sự việc tương phản của chương này có lẽ không ngoài mục đích trình bày một số điểm tế nhị cần đến sự chú tâm suy xét.

- Chương 8 là chương về Y Phục giảng giải về loại y và các vấn đề có liên quan về nhiều phương din. Điểm thú vị ở chương này là tụng phẩm mở đầu với câu chuyện về thầy thuốc Jīvaka Komārabhacca và tài năng chữa bệnh của vị này, đáng ngạc nhiên là việc giải phẩu ở đầu và ở bụng đã được tiến hành vào thời gian cách đây hơn 2,500 năm.

- Chương 9 đưc đặt tên theo một sự kiện xảy ra ở Campā nêu lên một tiền lệ không tốt đẹp về việc sử dụng sức mạnh tập thể đ áp đặt hành phạt sai trái lên cá nhân. Thời bấy giờ còn có đức Phật là vị quan tòa để phân xử, trong thời hiện tại trách nhiệm xem xét lại sự việc được trao cho các hội chúng tỳ khưu ở những trú xứ khác nếu có sự thỉnh cầu. Các điều giảng giải trong chương này không ngoài việc trình bày khuôn mẫu trong việc tiến hành các hành sự, khả năng thực hiện của hội chúng đối với các loại hành sự khác nhau tùy thuộc vào số lượng tỳ khưu hiện diện, và một số nguyên tắc cần được áp dụng để bảo đảm tính chất đúng Pháp đúng Luật của hành sự đang được thực hiện. Các hành sự của hội chúng cùng với việc thâu hồi các hành sự ấy cũng được trình bày ở chương này gồm có: hành sự khiển trách, hành sự chỉ dạy, hành sự xua đuổi, hành sự hòa giải, và ba loại hành sự án treo.

- Chương thứ 10 nói về sự việc chia rẽ hội chúng ở Kosambi từ lúc khởi đu đến hồi kết thúc. Mầm mống chia rẽ trong câu chuyện này chỉ là một sự tranh cãi về một điều Luật không quan trọng, từ sự xung đt cá nhân đã lan rộng đến tập thể và trở nên căng thẳng không những đưa đến ẩu đả giữa các tỳ khưu mà còn khiến cho đức Phật đã bỏ đi vào rừng sâu sống với sự phục vụ của con voi đu đàn. Yếu tố đưa đến việc giải quyết sự chia rẽ này là hành động tẩy chay tích cực của các cư sĩ ở thành Kosambi, cuối cùng sự tranh tụng được giải quyết do sự phục thiện của vị tỳ khưu sai trái. Câu chuyện về hoàng tử Dīghāvu và nếp sống sinh hoạt của ba vị đi đức Anuruddha, Nandiya, Kimbila nhằm đề cao sự sống chung hòa ái và không thù hận lẫn nhau, đây là một yếu tố quan trọng cần được xây dựng và duy trì trong đời sống tập thể.

*****

Về hình thức, văn bn Pāi Roman được trình bày ở đây đã được phiên âm lại từ văn bn Pāḷi - Sinhala, ấn bản Buddha Jayanti Tripitaka Seriescủa nước quốc giáo Sri Lanka. Nhân đây, chúng tôi cũng xin thành tâm tán dương công đức của Ven. Mettāvihārī đã hoan hỷ cho phép chúng tôi sử dụng văn bn đã được phiên âm sẵn đang phổ biến trên mạng internet. Điu này đã tiết kiệm cho chúng tôi nhiều thời gian và công sức trong việc nhận diện mặt chữ và đánh máy; tuy nhiên việc kiểm tra đối chiếu lại với văn bn chánh cũng đã chiếm khá nhiều thời gian.

Về phương diện dịch thuật và trình bày văn bản tiếng Việt, như đã trình bày ở các tập Luật trước, chúng tôi giữ nguyên từ Pāli của một số thuật ngữ không dịch sang tiếng Việt ví dụ như tên các điều học pārājika, saghādisesa, hoặc tên của các nghi thức như là lễ Uposatha, lễ Pavāraā, v.v... Ngoài ra cũng có một số từ không tìm ra được nghĩa Việt như trường hợp tên các loại thảo mộc. Thêm vào đó, chúng tôi cũng đã sử dụng dạngchữ nghiêng cho một số chữ hoặc câu văn nhằm gợi sự chú ý của ngưi đọc về tầm quan trọng của ý nghĩa, hoặc về tính chất thực dụng của chúng. Riêng về các câu kệ ngôn, chúng tôi đã ghi nghĩa Việt bằng văn xuôi nhằm diễn tả trọn vẹn ý nghĩa của văn bản gốc, và được trình bày bằng dạng chữnghiêng để làm nổi bật sự khác biệt.

Về văn phong của lời dịch, chúng tôi chủ trương ghi lại lời tiếng Việt sát theo văn bản gốc và cố gắng không bỏ sót từ nào không dịch. Lời văn tiếng Việt của chúng tôi có chứa đựng những mấu chốt giúp cho những ai có ý thích nghiên cứu Pāḷi thấy ra được cấu trúc của loại ngôn ngữ này, đống thời tạo sự thuận tiện cho công việc hiệu đính trong tương lai. Việc làm này của chúng tôi không hẳn đã được hoàn hảo, dẫu sao cũng là bước khởi đầu nhằm thúc đẩy phong trào nghiên cứu cổ ngữ Phật Học của người Việt Nam. Tuy nhiên, một số sai sót trong quá trình phiên dịch đương nhiên không thể tránh khỏi, chúng tôi xin chịu hoàn toàn trách nhiệm về trình độ yếu kém.

Nhân đây, chúng tôi cũng xin chân thành ghi nhận sự quan tâm chăm sóc trực tiếp hoặc gián tiếp đối với công tác phiên dịch của chúng tôi về phương diện vật thực bồi dưỡng và thuốc men chữa bệnh của các vị hữu ân sau: Ni Sư Kiu Đàm Di, hai v Sư Cô ở Australia, nhóm Phật tử California do Cô Phạm Thị Thi đi đin, gia đình Nguyễn văn Hiền & Trần Hưng, gia đình Phạm Trọng Độ & Ngô thị Liên, gia đình Mạc Đăng Nam, và Phật tử Hựu Huyền. Công việc soạn thảo này được thông suốt, không bị gián đoạn, chính là nhờ có sự hỗ trợ cấp thời và quý báu của quý vị. Thành tâm cầu chúc quý vị luôn giữ vững niềm tin và thành tựu được nhiều kết quả trong công việc tu tập giải thoát và hộ trì Tam Bảo.

Một điều thiếu sót lớn nếu không đề cập đến sự nhiệt tình giúp đỡ của Phật tử Tung Thiên đã sắp xếp thời gian đ đọc qua bản thảo và đã đóng góp nhiều ý kiến sâu sắc giúp cho chúng tôi tránh được một số điểm vụng về trong việc sử dụng từ ngữ tiếng Việt. Chúng tôi cũng xin thành tâm tùy hỷ và tán dương công đức của các thí chủ đã nhiệt tâm đóng góp tài chánh giúp cho Công Trình Ấn Tống Tam Tạng Song Ngữ Pāḷi - Việt được tồn tại và phát triến, mong sao phước báu Pháp thí này luôn dẫn dắt quý vị vào con đường tu tập đúng theo Chánh Pháp, thành tựu Chánh Trí, chứng ngộ Niết Bàn, không còn luân hồi sanh tử nữa.

Nhân đây, cũng xin thành kính tri ân công đức của Ven. Wattegama Dhammawasa, Sanghanāyaka ở Australia và cũng là Tu Viện Trưởng tu viện Sri Subodharama Buddhist Centre ở Peradeniya - Sri Lanka, đã cung cấp trú xứ cho chúng tôi ở Khu Ẩn Lâm Subodha, dưới chân núi Ambuluwawa, Gampola, cách thủ đô Colombo khoảng 150 cây số. Điều kiện yên tĩnh và khí hậu mát mẻ trong lành ở đây đã giúp cho chúng tôi rất nhiều trong việc chú tâm và kiên trì thực hiện bản soạn thảo của các tập Luật. Cũng không quên nhắc đến sự phục vụ và chăm sóc về mọi mặt, nhất là vật thực của hai vị cư sĩ người Sri Lanka là Gunavardhana và Dayānanda ở trú xứ này đã giúp cho chúng tôi có thể tập trung toàn thời gian cho công việc phiên dịch này.

Cuối cùng, ngưỡng mong phước báu phát sanh trong công việc soạn thảo tập Kinh này được thành tựu đến thầy tổ, song thân, và tất cả chúng sanh trong tam giới. Nguyện cho hết thảy đu được an vui, sức khỏe, có trí tuệ, và tinh tấn tu tập ngõ hầu thành đạt cứu cánh giải thoát, chấm dứt khổ đau.

                                                                                                         Kính bút,

Khu Ẩn Lâm Subodha

ngày 15 tháng 09 năm 2009

Tỳ Khưu Indacanda (Trương Đình Dũng)

--ooOoo--

CÁC TỪ CHUYÊN MÔN

Một số từ chuyên môn cùng với các từ dịch nghĩa hoặc dịch âm bởi các dịch giả khác đã được trích lục và ghi lại dưi đây:

- Pātimokkha: giới bổn Ba-la-đề-mộc-xoa, biệt biệt giải thoát giới.

- Pārājika: tội bất cộng trụ, ba-la-di, triệt khai, ba-la-thị-ca, giới khí.

- Saṅghādisesa: tội tội tăng tàn, tăng tàng, tăng-già-bà-thi-sa, tăng-già-phạt-thi-sa.

- Aniyata: tội bất định.

- Nissaggiya pācittiya: ti ưng x đối trị, ni-tát-kỳ-ba-dật-đề, ni-tát-kỳ-ba-dật-để-ca, giới xả đọa.

- Pācittiya: ti ưng đối trị, ba-dật-đề, ba-dật-để-ca, giới đọa.

- Pāidesanīya: ti ưng phát l, ba-la-đ đề-xá-ni, ba-dạ, ba-la-đề-xá-ni, giới hối quá.

- Sekhiya dhamma: ưng học pháp, chúng-học-pháp, pháp chúng học, giới học.

- Adhikaraṇa dhamma: pháp diệt tranh, pháp diệt-tránh, pháp điều giải.

- Thullaccaya: trọng tội, tội thâu lan giá.

- Dukkaṭa: tội tác ác, đột cát la.

- Dubbhāsita: tội ác khẩu.

- Parivāsa: phạt biệt trú.

- Mānatta: hành tự hối.

- Abbhāna: phục vị.

- Uposatha: lễ Bố Tát.

- Pavāraā: lễ Tự Tứ.

--ooOoo--

CÁC CHỮ VIẾT TẮT

VinA.               : Vinaya Aṭṭhakathā (Samantapāsādikā)

                        - Chú Giải Tạng Luật (PTS)

ND                  : Chú thích của Người Dịch

PTS                 : Nhà Xuất Bản Pali Text Society (Anh Quốc)

Sđd.                 : Sách đã dẫn

TTPV              : Tam Tạng Pāḷi - Việt



Phiên bản thư viện demo v4.5 [Tipiṭaka Tiếng Việt] Theravada