Vào lúc bấy giờ, tại trú xứ nọ trong xứ Kosala vào ngày lễ Pavāraā đã có sự sợ hãi vì đám lục lâm. Các vị tỳ khưu đã không thể thỉnh cầu ba lần đọc. Các vị đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn. - “Này các tỳ khưu, ta cho phép thỉnh cầu hai lần đc.” Đã có sự sợ hãi dữ dội hơn vì đám lục lâm. Các vị tỳ khưu đã không thể thỉnh cầu hai lần đọc. Các vị đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn. - “Này các tỳ khưu, ta cho phép thỉnh cầu một lần đc.” Đã có sự sợ hãi dữ dội hơn vì đám lục lâm. Các vị tỳ khưu đã không thể thỉnh cầu một lần đọc. Các vị đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn. - “Này các tỳ khưu, ta cho phép thỉnh cầu (cùng một lượt) theo sự đng năm tu.”

Vào lúc bấy giờ, tại trú xứ nọ vào ngày lễ Pavāraā trong khi dân chúng còn đang cúng dường vật thí thì đêm đã gần tàn. Khi ấy, các vị tỳ khưu y đã khởi ý rằng: “Trong khi những người này còn đang cúng dường vật thí thì đêm đã gần tàn, nếu hội chúng sẽ thỉnh cầu ba lần đọc thì hội chúng sẽ không thỉnh cầu xong và khi ấy đêm nay sẽ hừng sáng, vậy chúng ta nên thực hành như thế nào?” Các vị đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn. - “Này các tỳ khưu, trường hợp tại trú xứ nọ vào ngày lễ Pavāraā trong khi dân chúng còn đang cúng dường vật thí thì đêm đã gần tàn. Nếu các vị tỳ khưu  đó khởi ý như vầy: ‘Trong khi những người này còn đang cúng dường vật thí thì đêm đã gần tàn, nếu hội chúng sẽ thỉnh cầu ba lần đọc thì hội chúng sẽ không thỉnh cầu xong và khi ấy đêm nay sẽ hừng sáng.’ Hội chúng cần được thông báo bởi vị tỳ khưu có kinh nghim, đnăng lực: ‘Bạch các ngài, xin hội chúng hãy lắng nghe tôi. Trong khi dân chúng còn đang cúng dường vật thí thì đêm đã gần tàn, nếu hội chúng sẽ thỉnh cầu ba lần đọc thì hội chúng sẽ không thỉnh cầu xong và khi ấy đêm nay sẽ hừng sáng. Nếu là thời điểm thích hợp cho hội chúng, hội chúng nên thỉnh cầu hai lần đc —(như trên)— một lần đc —(như trên)— theo s đng năm tu.’

Này các tỳ khưu, trường hợp tại trú xứ nọ vào ngày lễ Pavāraā, trong khi các vị tỳ khưu đang ging Pháp —(như trên)— trong khi các vị chuyên về Kinh đang trùng tụng về Kinh —(như trên)— trong khi các vị chuyên về Luật đang hỏi về Luật —(như trên)— trong khi các v Pháp sư đang thảo luận về Pháp —(như trên)— trong khi các vị tỳ khưu đang tranh cãi thì đêm đã gần tàn. Nếu các vị tỳ khưu  đó khởi ý như vầy: ‘Trong khi các vị tỳ khưu đang tranh cãi thì đêm đã gần tàn, nếu hội chúng sẽ thỉnh cầu ba lần đọc thì hội chúng sẽ không thỉnh cầu xong và khi ấy đêm nay sẽ hừng sáng.’ Hội chúng cần được thông báo bởi vị tỳ khưu có kinh nghim, đ năng lực: ‘Bạch các ngài, xin hội chúng hãy lắng nghe tôi. Trong khi các vị tỳ khưu đang tranh cãi thì đêm đã gần tàn, nếu hội chúng sẽ thỉnh cầu ba lần đọc thì hội chúng sẽ không thỉnh cầu xong và khi ấy đêm nay sẽ hừng sáng. Nếu là thời điểm thích hợp cho hội chúng, hội chúng nên thỉnh cầu hai lần đc —(như trên)— một lần đc —(như trên)— theo s đng năm tu.’”

Vào lúc bấy giờ, tại trú xứ nọ trong xứ Kosala vào ngày lễ Pavāraā, có hội chúng tỳ khưu đông đo đã tụ hội lại. Chỗ trú mưa thì ít ỏi và đám mây đen lớn đã kéo đến. Khi ấy, các vị tỳ khưu y đã khởi ý điều này: “Hội chúng tỳ khưu đông đo này đã tụ hội lại. Chỗ trú mưa thì ít ỏi và đám mây đen ln đã kéo đến. Nếu hội chúng sẽ thỉnh cầu ba lần đọc thì hội chúng sẽ không thỉnh cầu xong và đám mây đen này s đ mưa, vậy chúng ta nên thực hành như thế nào?” Các vị đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn. - “Này các tỳ khưu, trường hợp tại trú xứ nọ vào ngày lễ Pavāraā, có hội chúng tỳ khưu đông đảo tụ hội lại. Chỗ trú mưa thì ít ỏi và đám mây đen ln đã kéo đến. Nếu các vị tỳ khưu  đó khởi ý như vầy: ‘Hội chúng tỳ khưu đông đo này đã tụ hội lại. Chỗ trú mưa thì ít ỏi và đám mây đen ln đã kéo đến. Nếu hội chúng sẽ thỉnh cầu ba lần đọc thì hội chúng sẽ không thỉnh cầu xong và đám mây đen này s đ mưa.’ Hội chúng cần được thông báo bởi vị tỳ khưu có kinh nghim, đ năng lực: ‘Bạch các ngài, xin hội chúng hãy lắng nghe tôi. Hội chúng tỳ khưu đông đo này đã tụ hội lại. Chỗ trú mưa thì ít ỏi và đám mây đen ln đã kéo đến. Nếu hội chúng sẽ thỉnh cầu ba lần đọc thì hội chúng sẽ không thỉnh cầu xong và đám mây đen này s đ mưa. Nếu là thời điểm thích hợp cho hội chúng, hội chúng nên thỉnh cầu hai lần đc —(như trên)— một lần đc —(như trên)— theo s đng năm tu.’

Này các tỳ khưu, trường hợp tại trú xứ nọ vào ngày lễ Pavāraā, có sự nguy hiểm từ đc vua ―(như trên)― có sự nguy hiểm vì trộm cưp —(như trên)— có sự nguy hiểm vì hỏa hoạn —(như trên)— có sự nguy hiểm vì nước ngập —(như trên)— có sự nguy hiểm vì loài ngưi —(như trên)— có sự nguy hiểm vì phi nhân —(như trên)— có sự nguy hiểm vì thú dữ —(như trên)— có sự nguy hiểm vì rắn —(như trên)— có sự nguy hiểm cho mạng sống —(như trên)— có sự nguy hiểm cho Phạm hạnh. Nếu các vị tỳ khưu  đó khởi ý như vy: ‘Đây là sự nguy hiểm cho Phạm hạnh. Nếu hội chúng sẽ thỉnh cầu ba lần đọc thì hội chúng sẽ không thỉnh cầu xong và điều này sẽ là sự nguy hiểm cho Phạm hạnh.’ Hội chúng cần được thông báo bởi vị tỳ khưu có kinh nghim, đ năng lực: ‘Bạch các ngài, xin hội chúng hãy lắng nghe tôi. Đây là sự nguy hiểm cho Phạm hạnh. Nếu hội chúng sẽ thỉnh cầu ba lần đọc thì hội chúng sẽ không thỉnh cầu xong và điều này sẽ là sự nguy hiểm cho Phạm hạnh. Nếu là thời điểm thích hợp cho hội chúng, hội chúng nên thỉnh cầu hai lần đc —(như trên)— một lần đc —(như trên)— theo s đng năm tu.’”

Vào lúc bấy giờ, các tỳ khưu nhóm Lc Sư là những vị có phạm tội tiến hành lễ Pavāraā. Các vị đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn. - “Này các tỳ khưu, vị có phạm tội không nên thỉnh cầu; vị nào thỉnh cầu thì phạm tội dukkaṭa. Này các tỳ khưu, vị nào có phạm tội mà thỉnh cầu thì ta cho phép buộc tội vị ấy sau khi đã thỉnh ý trước.”

Vào lúc bấy giờ, các tỳ khưu nhóm Lc Sư trong khi được thỉnh ý trưc đã không muốn để cho thỉnh ý. Các vị đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn. - “Này các tỳ khưu, ta cho phép đình chỉ sự thỉnh cầu đối với vị không cho thỉnh ý. Và này các tỳ khưu, nên đình chỉ như vầy: Vào ngày lễ Pavāraā là ngày mười bốn hoặc mưi lăm, trong khi nhân vật ấy có hiện diện ở giữa hội chúng, nên trình lên rằng: ‘Bạch các ngài, xin hội chúng hãy lắng nghe tôi. Nhân vật tên (như vầy) có phạm tội. Tôi đình chỉ sự thỉnh cầu của vị ấy. Không nên thỉnh cầu trong sự hiện diện của vị ấy.’ Sự thỉnh cầu đã đưc đình chỉ.”

Vào lúc bấy giờ, các tỳ khưu nhóm Lục Sư (nghĩ rng): “Trước hết, các vị tỳ khưu hiền thiện sẽ đình chỉ sự thỉnh cầu của chúng ta” nên ra tay trưc đình chỉ sự thỉnh cầu của các vị tỳ khưu trong sạch không phạm tội không có cơ sở không có nguyên nhân. Các vị cũng đình chỉ sự thỉnh cầu của các vị đã thỉnh cầu xong. Các vị đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn. - “Này các tỳ khưu, không nên đình chỉ sự thỉnh cầu của các vị tỳ khưu trong sạch không phạm tội khi không có cơ sở không có nguyên nhân; vị nào đình chỉ thì phạm tội dukkaṭa. Và này các tỳ khưu, không nên đình chỉ sự thỉnh cầu của các vị đã thỉnh cầu xong; vị nào đình chỉ thì phạm tội dukkaṭa.”

Này các tỳ khưu, như vầy là sự thỉnh cầu bị đình chỉ, như vầy là không bị đình chỉ. Này các tỳ khưu, thế nào là sự thỉnh cầu không bị đình chỉ? Này các tỳ khưu, trong sự thỉnh cầu với ba lần đọc, nếu đình chỉ sự thỉnh cầu vào lúc đã đc, đã nói, đã hoàn tất thì sự thỉnh cầu không bị đình chỉ. Này các tỳ khưu, trong sự thỉnh cầu hai lần đọc, nếu —(như trên)— Này các t khưu, trong sự thỉnh cầu một lần đọc, nếu —(như trên)— Này các t khưu, trong sự thỉnh cầu (đọc một lượt) theo sự đng năm tu, nếu đình chỉ sự thỉnh cầu vào lúc đã đc, đã nói, đã hoàn tất thì sự thỉnh cầu không bị đình chỉ. Này các tỳ khưu, như thế là sự thỉnh cầu không bị đình chỉ.

Này các tỳ khưu, thế nào là sự thỉnh cầu bị đình chỉ? Này các tỳ khưu, trong sự thỉnh cầu ba lần đọc, nếu đình chỉ sự thỉnh cầu vào lúc đã đc, đã nói, (nhưng) chưa được hoàn tất thì sự thỉnh cầu bị đình chỉ. Này các tỳ khưu, trong sự thỉnh cầu hai lần đọc, nếu —(như trên)— Này các t khưu, trong sự thỉnh cầu một lần đọc, nếu —(như trên)— Này các t khưu, trong sự thỉnh cầu (đọc một lượt) theo sự đng năm tu, nếu đình chỉ sự thỉnh cầu vào lúc đã đc, đã nói, (nhưng) chưa được hoàn tất thì sự thỉnh cầu bị đình chỉ. Này các tỳ khưu, như thế là sự thỉnh cầu bị đình chỉ.

Này các tỳ khưu, trường hợp trong ngày lễ Pavāraā, có vị tỳ khưu đình chỉ sự thỉnh cầu của vị tỳ khưu. Nếu các vị tỳ khưu khác biết về vị tỳ khưu (đình chỉ) ấy rằng: “Đi đức này có sở hành về thân không được trong sạch, có sở hành về khẩu không được trong sạch, có sự nuôi mạng không được trong sạch, (là vị) ngu dốt, không kinh nghiệm, không có năng lc đi đáp lại khi bị tra hỏi.” Sau khi đã răn đe rằng: “Này tỳ khưu, thôi đi! Chớ có sự xung đột, chớ có sự cãi cọ, chớ có sự tranh luận, chớ có sự tranh tụng!” rồi hội chúng nên tiến hành lễ Pavāraā.

Này các tỳ khưu, trường hợp trong ngày lễ Pavāraā, có vị tỳ khưu đình chỉ sự thỉnh cầu của vị tỳ khưu. Nếu các vị tỳ khưu khác biết về vị tỳ khưu (đình chỉ) ấy rằng: “Đi đức này có sở hành về thân được trong sạch, có sở hành về khẩu không được trong sạch, có sự nuôi mạng không được trong sạch, (là vị) ngu dốt, không kinh nghiệm, không có năng lc đi đáp lại khi bị tra hỏi.” Sau khi đã răn đe rằng: “Này tỳ khưu, thôi đi! Chớ có sự xung đột, chớ có sự cãi cọ, chớ có sự tranh luận, chớ có sự tranh tụng!” rồi hội chúng nên tiến hành lễ Pavāraā.

Này các tỳ khưu, trường hợp trong ngày lễ Pavāraā, có vị tỳ khưu đình chỉ sự thỉnh cầu của vị tỳ khưu. Nếu các vị tỳ khưu khác biết về vị tỳ khưu (đình chỉ) ấy rằng: “Đi đức này có sở hành về thân được trong sạch, có sở hành về khẩu được trong sạch, có sự nuôi mạng không được trong sạch, (là vị) ngu dốt, không kinh nghiệm, không có năng lc đi đáp lại khi bị tra hỏi.” Sau khi đã răn đe rằng: “Này tỳ khưu, thôi đi! Chớ có sự xung đột, chớ có sự cãi cọ, chớ có sự tranh luận, chớ có sự tranh tụng!” rồi hội chúng nên tiến hành lễ Pavāraā.

Này các tỳ khưu, trường hợp trong ngày lễ Pavāraā, có vị tỳ khưu đình chỉ sự thỉnh cầu của vị tỳ khưu. Nếu các vị tỳ khưu khác biết về vị tỳ khưu (đình chỉ) ấy rằng: “Đi đức này có sở hành về thân được trong sạch, có sở hành về khẩu được trong sạch, có sự nuôi mạng được trong sạch, (là vị) ngu dốt, không kinh nghiệm, không có năng lực đi đáp lại khi bị tra hỏi.” Sau khi đã răn đe rằng: “Này tỳ khưu, thôi đi! Chớ có sự xung đột, chớ có sự cãi cọ, chớ có sự tranh luận, chớ có sự tranh tụng!” rồi hội chúng nên tiến hành lễ Pavāraā.

Này các tỳ khưu, trường hợp trong ngày lễ Pavāraā, có vị tỳ khưu đình chỉ sự thỉnh cầu của vị tỳ khưu. Nếu các vị tỳ khưu khác biết về vị tỳ khưu (đình chỉ) ấy rằng: “Đi đức này có sở hành về thân được trong sạch, có sở hành về khẩu được trong sạch, có sự nuôi mạng được trong sạch, (là vị) sáng trí, có kinh nghiệm, có năng lc đi đáp lại khi bị tra hỏi.” Vị (đình chỉ) ấy nên đưc nói như sau: “Này đi đức, việc đi đc đình chỉ sự thỉnh cầu của vị tỳ khưu này, đi đc đình chỉ vị này do điều gì? Đi đc đình chỉ do sự hư hỏng về giới, đình chỉ do sự hư hỏng về hạnh kiểm, đình chỉ do sự hư hỏng về tri kiến?”

Nếu vị ấy nói như vầy: “Hoặc là tôi đình chỉ do sự hư hỏng về giới, hoặc là tôi đình chỉ do sự hư hỏng về hạnh kiểm, hoặc là tôi đình chỉ do sự hư hỏng về tri kiến.” Vị ấy nên đưc nói như sau: “Vậy vị đi đức có biết sự hư hỏng về giới không, có biết sự hư hỏng về hạnh kiểm không, có biết sự hư hỏng về tri kiến không?” Nếu vị ấy nói như vy: “Này các đi đức, tôi biết sự hư hỏng về giới, tôi biết sự hư hỏng về hạnh kiểm, tôi biết sự hư hỏng về tri kiến.” Vị ấy nên đưc nói như sau: “Này đi đc, điều gì là sự hư hỏng về giới, điều gì là sự hư hỏng về hạnh kiểm, điều gì là sự hư hỏng về tri kiến?”

Nếu vị ấy nói như vầy: “Bốn pārājika, ời ba saṅghādisesa, đó là s hư hỏng về giới. Tội thullaccaya, tội pācittiya, tội idesanīya, tội dukkaṭa, tội dubbhāsita, đó là s hư hỏng về hạnh kiểm. Tà kiến, tri kiến cực đoan, đó là s hư hỏng về tri kiến.” Vị ấy nên đưc nói như sau: “Này đi đức, việc đi đc đình chỉ sự thỉnh cầu của vị tỳ khưu này, có phi đại đc đình chỉ do đã được thấy, đình chỉ do đã đưc nghe, đình chỉ do sự nghi ngờ?”

Nếu vị ấy nói như vầy: “Hoặc là tôi đình chỉ do đã được thấy, hoặc là tôi đình chỉ do đã được nghe, hoặc là tôi đình chỉ do sự nghi ngờ.” Vị ấy nên đưc nói như sau: “Này đi đức, việc đi đc đình chỉ sự thỉnh cầu của vị tỳ khưu này do đã được thấy, đi đc đã thấy gì? Đi đc đã thấy thế nào? Đi đc đã thấy khi nào? Đi đc đã thấy ở đâu? Có phi đã thấy vị này đang phạm pārājika, đã thấy đang phạm saṅghādisesa, đã thấy đang phạm tội thullaccaya ...tội pācittiya ...tội idesanīya ...tội dukkaṭa ...tội dubbhāsita? Và đi đc đã ở đâu, và vị tỳ khưu này đã ở đâu, và đi đc đã làm gì, và vị tỳ khưu này đã làm gì?”

Nếu vị ấy nói như vy: “Này các đi đc, tôi không đình chỉ sự thỉnh cầu của vị tỳ khưu này do đã được thấy, tuy nhiên tôi đình chỉ sự thỉnh cầu do đã được nghe.” Vị ấy nên đưc nói như sau: “Này đi đức, việc đi đc đình chỉ sự thỉnh cầu của vị tỳ khưu này do đã đưc nghe, đi đc đã nghe gì? Đi đc đã nghe thế nào? Đi đc đã nghe khi nào? Đi đc đã nghe ở đâu? Có phi đã nghe rằng: ‘Vị này đã phạm tội pārājika’? Có phải đã nghe rằng: ‘Vị này đã phạm tội saṅghādisesa’? Có phải đã nghe rằng: ‘Vị này đã phạm tội thullaccaya ...tội pācittiya ...tội idesanīya ...tội dukkaṭa ...tội dubbhāsita’? Có phải đi đc đã nghe từ vị tỳ khưu, đã nghe từ vị tỳ khưu ni, đã nghe từ cô ni tu tập sự, đã nghe từ vị sa di, đã nghe từ vị sa di ni, đã nghe từ nam cư sĩ, đã nghe từ nữ cư sĩ, đã nghe từ các đc vua, đã nghe từ các quan đại thần của đc vua, đã nghe từ các ngoại đo, đã nghe từ các đệ tử của ngoại đạo?”

Nếu vị ấy nói như vy: “Này các đi đc, tôi không đình chỉ sự thỉnh cầu của vị tỳ khưu này do đã đưc nghe, tuy nhiên tôi đình chỉ sự thỉnh cầu do sự nghi ngờ.” Vị ấy nên đưc nói như sau: “Này đi đức, việc đi đc đình chỉ sự thỉnh cầu của vị tỳ khưu này do sự nghi ngờ, đi đức nghi ngờ gì, nghi ngờ như thế nào, nghi ngờ khi nào, nghi ngờ ở đâu? Có phi đi đức nghi ngờ rằng: ‘Vị này đã phạm tội pārājika’? Có phải đại đức nghi ngờ rằng: ‘Vị này đã phạm tội saṅghādisesa’? Có phải đi đức nghi ngờ rằng: ‘Vị này đã phạm tộithullaccaya ...tội pācittiya ...tội idesanīya ...tội dukkaṭa ...tội dubbhāsita’? Có phải đi đức nghi ngờ sau khi nghe từ vị tỳ khưu, nghi ngờ sau khi nghe từ vị tỳ khưu ni, nghi ngờ sau khi nghe từ cô ni tu tập sự, nghi ngờ sau khi nghe từ vị sa di, nghi ngờ sau khi nghe từ vị sa di ni, nghi ngờ sau khi nghe từ nam cư sĩ, nghi ngờ sau khi nghe từ nữ cư sĩ, nghi ngờ sau khi nghe từ các đức vua, nghi ngờ sau khi nghe từ các quan đại thần của đức vua, nghi ngờ sau khi nghe từ các ngoại đạo, nghi ngờ sau khi nghe từ các đệ tử của ngoại đạo?”

Nếu vị ấy nói như vy: “Này các đi đc, tôi không đình chỉ sự thỉnh cầu của vị tỳ khưu này do sự nghi ngờ, hơn nữa tôi cũng không biết do điều gì tôi đình chỉ sự thỉnh cầu của vị tỳ khưu này.” Này các t khưu, nếu vị tỳ khưu buộc tội không làm thỏa mãn tâm của các vị đồng Phạm hạnh thông minh bằng lời đi đáp thì vừa đủ cho lời nói rằng: “Vị bị buộc tội là không có tội.” Này các tỳ khưu, nếu vị tỳ khưu buộc tội làm thỏa mãn tâm của các vị đồng Phạm hạnh thông minh bằng lời đi đáp thì vừa đủ cho lời nói rằng: “Vị bị buộc tội là có tội.”

Này các tỳ khưu, nếu vị tỳ khưu buộc tội thú nhận là (vị kia) đã bị bôi nhọ với tội pārājika không có căn cứ, sau khi khép (vị buộc tội) vào tội saṅghādisesa rồi hội chúng nên tiến hành lễ Pavāraā. Này các tỳ khưu, nếu vị tỳ khưu buộc tội thú nhận là (vị kia) đã bị bôi nhọ với tội saṅghādisesa không có căn cứ, sau khi cho hành xử (vị buộc tội) theo Pháp rồi hội chúng nên tiến hành lễ Pavāraā. Này các tỳ khưu, nếu vị tỳ khưu buộc tội thú nhận là (vị kia) đã bị bôi nhọ với tội thullaccaya, ... với tội pācittiya, ... với tội idesanīya, ... với tộidukkaṭa, ... với tội dubbhāsita không có căn cứ, sau khi cho hành xử (vị buộc tội) theo Pháp rồi hội chúng nên tiến hành lễ Pavāraā.

Này các tỳ khưu, nếu vị tỳ khưu bị buộc tội thú nhận rằng: “Đã phạm tội pārājika,” sau khi trục xuất rồi hội chúng nên tiến hành lễ Pavāraā. Này các tỳ khưu, nếu vị tỳ khưu bị buộc tội thú nhận rằng: “Đã phạm tội saṅghādisesa,” sau khi khép vào tội saṅghādisesa rồi hội chúng nên tiến hành lễ Pavāraā. Này các tỳ khưu, nếu vị tỳ khưu bị buộc tội thú nhận rằng: “Đã phạm tội thullaccaya ... tội pācittiya ... tội ṭidesanīya ... tội dukkaṭa ... tộidubbhāsita,” sau khi cho hành xử (vị ấy) theo Pháp rồi hội chúng nên tiến hành lễ Pavāraā.

Này các tỳ khưu, trường hợp vào ngày lễ Pavāraā có vị tỳ khưu phạm tộithullaccaya. Một số tỳ khưu có quan điểm là tội thullaccaya, một số tỳ khưu có quan điểm là tội saṅghādisesa. Này các tỳ khưu, các vị tỳ khưu nào có quan điểm là tội thullaccaya, này các tỳ khưu, các vị ấy nên dẫn vị ấy đi ra một góc, sau khi cho (vị ấy) hành xử theo Pháp, rồi đi đến gặp hội chúng và nên nói như vy: “Này các đi đức, vị tỳ khưu ấy phạm tội nào, tội ấy đã được sửa chữa theo Pháp cho vị ấy. Nếu là thời điểm thích hợp cho hội chúng, hội chúng nên tiến hành lễ Pavāraā.”

Này các tỳ khưu, trường hợp vào ngày lễ Pavāraā có vị tỳ khưu phạm tội thullaccaya. Một số tỳ khưu có quan điểm là tội thullaccaya, một số tỳ khưu có quan điểm là tội pācittiya, ―(như trên)― Một số tỳ khưu có quan điểm là tội thullaccaya, một số tỳ khưu có quan điểm là tội idesanīya. ―(như trên)― Một số tỳ khưu có quan điểm là tội thullaccaya, một số tỳ khưu có quan điểm là tội dukkaṭa. ―(như trên)― Một số tỳ khưu có quan điểm là tội thullaccaya, một số tỳ khưu có quan điểm là tội dubbhāsita. Này các tỳ khưu, các vị tỳ khưu nào có quan điểm là tội thullaccaya, này các tỳ khưu, các vị ấy nên dẫn vị ấy đi ra một góc, sau khi cho (vị ấy) hành xử theo Pháp, rồi đi đến gặp hội chúng và nên nói như vy: “Này các đi đức, vị tỳ khưu ấy phạm tội nào, tội ấy đã được sửa chữa theo Pháp cho vị ấy. Nếu là thời điểm thích hợp cho hội chúng, hội chúng nên tiến hành lễ Pavāraā.”

Này các tỳ khưu, trường hợp vào ngày lễ Pavāraā có vị tỳ khưu đã phạm tộipācittiya. Một số tỳ khưu có quan điểm là tội pācittiya, một số tỳ khưu có quan điểm là tội saṅghādisesa. Này các tỳ khưu, các vị tỳ khưu nào có quan điểm là tội pācittiya, này các tỳ khưu, các vị ấy nên dẫn vị ấy đi ra một góc, sau khi cho (vị ấy) hành xử theo Pháp, rồi đi đến gặp hội chúng và nên nói như vy: “Này các đi đức, vị tỳ khưu ấy phạm tội nào, tội ấy đã được sửa chữa theo Pháp cho vị ấy. Nếu là thời điểm thích hợp cho hội chúng, hội chúng nên tiến hành lễ Pavāraā.”

Này các tỳ khưu, trường hợp vào ngày lễ Pavāraā có vị tỳ khưu đã phạm tội pācittiya. Một số tỳ khưu có quan điểm là tội pācittiya, một số tỳ khưu có quan điểm là tội thullaccaya. ―(như trên)― Một số tỳ khưu có quan điểm là tội pācittiya, một số tỳ khưu có quan điểm là tội idesanīya. ―(như trên)― Một số tỳ khưu có quan điểm là tội pācittiya, một số tỳ khưu có quan điểm là tội dukkaṭa. Một số tỳ khưu có quan điểm là tội pācittiya, một số tỳ khưu có quan điểm là tội dubbhāsita. ―(như trên)― Này các tỳ khưu, các vị tỳ khưu nào có quan điểm là tội pācittiya, này các tỳ khưu, các vị ấy nên dẫn vị ấy đi ra một góc, sau khi cho (vị ấy) hành xử theo Pháp, rồi đi đến gặp hội chúng và nên nói như vy: “Này các đi đức, vị tỳ khưu ấy phạm tội nào, tội ấy đã được sửa chữa theo Pháp cho vị ấy. Nếu là thời điểm thích hợp cho hội chúng, hội chúng nên tiến hành lễ Pavāraā.”

Này các tỳ khưu, trường hợp vào ngày lễ Pavāraā có vị tỳ khưu đã phạm tộiidesanīya. Một số tỳ khưu có quan điểm là tội idesanīya, một số tỳ khưu có quan điểm là tội saṅghādisesa. Này các tỳ khưu, các vị tỳ khưu nào có quan điểm là tội idesanīya, này các tỳ khưu, các vị ấy nên dẫn vị ấy đi ra một góc, sau khi cho (vị ấy) hành xử theo Pháp, rồi đi đến gặp hội chúng và nên nói như vy: “Này các đi đức, vị tỳ khưu ấy phạm tội nào, tội ấy đã được sửa chữa theo Pháp cho vị ấy. Nếu là thời điểm thích hợp cho hội chúng, hội chúng nên tiến hành lễ Pavāraā.”

Này các tỳ khưu, trường hợp vào ngày lễ Pavāraā có vị tỳ khưu đã phạm tộiidesanīya. Một số tỳ khưu có quan điểm là tội idesanīya, một số tỳ khưu có quan điểm là tội thullaccaya. ―(như trên)― Một số tỳ khưu có quan điểm là tội idesanīya, một số tỳ khưu có quan điểm là tội pācittiya. ―(như trên)― Một số tỳ khưu có quan điểm là tội idesanīya, một số tỳ khưu có quan điểm là tội dukkaṭa. Một số tỳ khưu có quan điểm là tội idesanīya, một số tỳ khưu có quan điểm là tội dubbhāsita. ―(như trên)― Này các tỳ khưu, các vị tỳ khưu nào có quan điểm là tội idesanīya, này các tỳ khưu, các vị ấy nên dẫn vị ấy đi ra một góc, sau khi cho (vị ấy) hành xử theo Pháp, rồi đi đến gặp hội chúng và nên nói như vy: “Này các đi đức, vị tỳ khưu ấy phạm tội nào, tội ấy đã được sửa chữa theo Pháp cho vị ấy. Nếu là thời điểm thích hợp cho hội chúng, hội chúng nên tiến hành lễPavāraā.”

Này các tỳ khưu, trường hợp vào ngày lễ Pavāraā có vị tỳ khưu đã phạm tội dukkaṭa. Một số tỳ khưu có quan điểm là tội dukkaṭa, một số tỳ khưu có quan điểm là tội saṅghādisesa. Này các tỳ khưu, các vị tỳ khưu nào có quan điểm là tội dukkaṭa, này các tỳ khưu, các vị ấy nên dẫn vị ấy đi ra một góc, sau khi cho (vị ấy) hành xử theo Pháp, rồi đi đến gặp hội chúng và nên nói như vy: “Này các đi đức, vị tỳ khưu ấy phạm tội nào, tội ấy đã được sửa chữa theo Pháp cho vị ấy. Nếu là thời điểm thích hợp cho hội chúng, hội chúng nên tiến hành lễ Pavāraā.”

Này các tỳ khưu, trường hợp vào ngày lễ Pavāraā có vị tỳ khưu đã phạm tội dukkaṭa. Một số tỳ khưu có quan điểm là tội dukkaṭa, một số tỳ khưu có quan điểm là tội thullaccaya. ―(như trên)― Một số tỳ khưu có quan điểm là tội dukkaṭa, một số tỳ khưu có quan điểm là tội pācittiya. ―(như trên)― Một số tỳ khưu có quan điểm là tội dukkaṭa, một số tỳ khưu có quan điểm là tội idesanīya. ―(như trên)― Một số tỳ khưu có quan điểm là tội dukkaṭa, một số tỳ khưu có quan điểm là tội dubbhāsita. Này các tỳ khưu, các vị tỳ khưu nào có quan điểm là tội dukkaṭa, này các tỳ khưu, các vị ấy nên dẫn vị ấy đi ra một góc, sau khi cho (vị ấy) hành xử theo Pháp, rồi đi đến gặp hội chúng và nên nói như vy: “Này các đi đức, vị tỳ khưu ấy phạm tội nào, tội ấy đã được sửa chữa theo Pháp cho vị ấy. Nếu là thời điểm thích hợp cho hội chúng, hội chúng nên tiến hành lễ Pavāraā.”

Này các tỳ khưu, trường hợp vào ngày lễ Pavāraā có vị tỳ khưu đã phạm tộidubbhāsita. Một số tỳ khưu có quan điểm là tội dubbhāsita, một số tỳ khưu có quan điểm là tội saṅghādisesa. Này các tỳ khưu, các vị tỳ khưu nào có quan điểm là tội dubbhāsita, này các tỳ khưu, các vị ấy nên dẫn vị ấy đi ra một góc, sau khi cho (vị ấy) hành xử theo Pháp, rồi đi đến gặp hội chúng và nên nói như vy: “Này các đi đức, vị tỳ khưu ấy phạm tội nào, tội ấy đã được sửa chữa theo Pháp cho vị ấy. Nếu là thời điểm thích hợp cho hội chúng, hội chúng nên tiến hành lễ Pavāraā.”

Này các tỳ khưu, trường hợp vào ngày lễ Pavāraā có vị tỳ khưu đã phạm tội dubbhāsita. Một số tỳ khưu có quan điểm là tội dubbhāsita, một số tỳ khưu có quan điểm là tội thullaccaya. ―(như trên)― Một số tỳ khưu có quan điểm là tội dubbhāsita, một số tỳ khưu có quan điểm là tội pācittiya. ―(như trên)― Một số tỳ khưu có quan điểm là tội dubbhāsita, một số tỳ khưu có quan điểm là tội idesanīya. ―(như trên)― Một số tỳ khưu có quan điểm là tội dubbhāsita, một số tỳ khưu có quan điểm là tội dukkaṭa. Này các tỳ khưu, các vị tỳ khưu nào có quan điểm là tội dubbhāsita, này các tỳ khưu, các vị ấy nên dẫn vị ấy đi ra một góc, sau khi cho (vị ấy) hành xử theo Pháp, rồi đi đến gặp hội chúng và nên nói như vy: “Này các đi đức, vị tỳ khưu ấy phạm tội nào, tội ấy đã được sửa chữa theo Pháp cho vị ấy. Nếu là thời điểm thích hợp cho hội chúng, hội chúng nên tiến hành lễ Pavāraā.”

Này các tỳ khưu, trường hợp vào ngày lễ Pavāraā có vị tỳ khưu nêu lên ở giữa hội chúng rằng: “Bạch các ngài, xin hội chúng hãy lắng nghe tôi. Sự việc này được biết và nhân sự thì không (biết). Nếu là thời điểm thích hợp cho hội chúng, hội chúng nên loại trừ sự việc rồi tiến hành lễ Pavāraā.” Vị ấy nên đưc nói như vy: “Này đi đc, đức Thế Tôn đã quy định lễ Pavāraā là của các vị trong sạch. Nếu sự việc này được biết và nhân vật thì không (biết), thì ngay bây giờ đi đức hãy nói về việc ấy.”

Này các tỳ khưu, trường hợp vào ngày lễ Pavāraā có vị tỳ khưu nêu lên ở giữa hội chúng rằng: “Bạch các ngài, xin hội chúng hãy lắng nghe tôi. Nhân vật này được biết và sự việc thì không (biết). Nếu là thời điểm thích hợp cho hội chúng, hội chúng nên loại trừ nhân vật rồi tiến hành lễ Pavāraā.” Vị ấy nên đưc nói như vy: “Này đi đc, đức Thế Tôn đã quy định lễ Pavāraā là của các vị trong sạch và của các sự hợp nhất. Nếu nhân vật này được biết và sự việc thì không (biết), thì ngay bây giờ đi đức hãy nói về việc ấy.”

Này các tỳ khưu, trường hợp vào ngày lễ Pavāraā có vị tỳ khưu nêu lên ở giữa hội chúng rằng: “Bạch các ngài, xin hội chúng hãy lắng nghe tôi. Sự việc này và nhân vật được biết. Nếu là thời điểm thích hợp cho hội chúng, hội chúng nên loại trừ sự việc và nhân vật rồi tiến hành lễ Pavāraā.” Vị ấy nên đưc nói như vy: “Này đi đc, đức Thế Tôn đã quy định lễ Pavāraā là của các vị trong sạch và của các sự hợp nhất. Nếu sự việc và nhân vật được biết, thì ngay bây giờ đi đức hãy nói về việc ấy.” Này các tỳ khưu, nếu sự việc được biết trước ngày lễ Pavāraā, còn nhân vật (được biết) sau đó thì thích hợp cho lời nói. Này các tỳ khưu, nếu nhân vật được biết trước ngày lễ Pavāraā, còn sự việc (được biết) sau đó thì thích hợp cho lời nói. Này các tỳ khưu, nếu sự việc và nhân vật được biết trước ngày lễ Pavāraā và khi lễ Pavāraā đã được thực hiện, nếu khơi lại việc ấy thì phạm tội pācittiyavề việc bươi móc.[3]

Vào lúc bấy giờ, có nhiều vị tỳ khưu là bn bè đng quan điểm, thân thiết, đã vào mùa (an cư) mưa tại trú xứ nọ ở trong xứ Kosala. Ở khu vực lân cận của các vị ấy, có những tỳ khưu khác là những vị thường gây nên các sự xung đột, cãi cọ, tranh luận, nói chuyện nhảm nhí, và tranh tụng trong hội chúng (cũng) đã vào mùa (an cư) mưa (nói rằng): - “Khi các vị tỳ khưu y đã sống qua mùa (an cư) mưa, chúng tôi s đình chỉ sự thỉnh cầu (của các vị ấy) vào ngày lễ Pavāraā.” Các vị tỳ khưu y đã nghe được rằng: “Nghe nói ở khu vực lân cận của chúng ta, có những tỳ khưu khác là những vị thường gây nên các sự xung đột, cãi cọ, tranh luận, nói chuyện nhảm nhí, và tranh tụng trong hội chúng (cũng) đã vào mùa (an cư) mưa (nói rằng): ‘Khi các vị tỳ khưu y đã sống qua mùa (an cư) mưa, chúng tôi s đình chỉ sự thỉnh cầu của các vị ấy vào ngày lễ Pavāraā,’ vậy chúng ta nên thực hành như thế nào?” Các vị đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn.

- “Này các tỳ khưu, trường hợp nhiều vị tỳ khưu là bạn bè đng quan điểm, thân thiết, vào mùa (an cư) mưa tại trú xứ nọ. Ở khu vực lân cận của các vị ấy, có những tỳ khưu khác là những vị thường gây nên các sự xung đột, cãi cọ, tranh luận, nói chuyện nhảm nhí, và tranh tụng trong hội chúng (cũng) vào mùa (an cư) mưa (nói rằng): “Khi các vị tỳ khưu y đã sống qua mùa (an cư) mưa, chúng tôi s đình chỉ sự thỉnh cầu của các vị ấy vào ngày lễ Pavāraā.” Này các tỳ khưu, ta cho phép các vị tỳ khưu ấy thực hiện hai hay ba lễ Uposatha vào ngày mười bốn (nghĩ rằng): “Làm thế nào chúng ta có thể tiến hành lễ Pavāraā sớm hơn các vị tỳ khưu ấy?”

Này các tỳ khưu, nếu các vị tỳ khưu là những vị thường gây nên các sự xung đột, cãi cọ, tranh luận, nói chuyện nhảm nhí, và tranh tụng trong hội chúng ấy đi đến chỗ trú xứ ấy, này các tỳ khưu, các vị tỳ khưu thường trú ấy nên tụ hội lại thật nhanh chóng và tiến hành lễ Pavāraā. Sau khi tiến hành lễ Pavāraā nên nói rằng: “Này các đi đc, chúng tôi đã thực hiện lễ Pavāraā, các đi đức hãy làm theo như điều mà các vị suy nghĩ.”

Này các tỳ khưu, nếu các vị tỳ khưu là những vị thường gây nên các sự xung đột, cãi cọ, tranh luận, nói chuyện nhảm nhí, và tranh tụng trong hội chúng ấy đi đến trú xứ ấy không báo trước, này các tỳ khưu, các vị tỳ khưu thường trú ấy nên sắp đặt chỗ ngồi, nên đem li nước rửa chân, ghế kê chân, tấm chà chân, rồi đi ra đón, nên rước y và bình bát, và nên hỏi ý về nước uống. Sau khi xem chừng các vị ấy rồi nên đi ra khỏi ranh giới và nên tiến hành lễ Pavāraā. Sau khi tiến hành lễ Pavāraā nên nói rằng: “Này các đi đc, chúng tôi đã thực hiện lễ Pavāraā, các đi đức hãy làm theo như điều mà các vị suy nghĩ.” Nếu việc ấy đt đưc như thế, việc ấy như vậy là tốt đẹp. Nếu không đt đưc (như thế), các vị tỳ khưu thường trú ấy cần được thông báo bởi vị tỳ khưu thường trú có kinh nghiệm, đ năng lc: “Xin các đi đc thường trú hãy lắng nghe tôi. Nếu là thời điểm thích hợp cho các đi đức, giờ đây chúng ta nên tiến hành lễ Uposatha, chúng ta nên đọc tụng giới bổn Pātimokkha. Chúng ta có thể tiến hành lễ Pavāraṇā vào hạ huyền tới.”[4]

Này các tỳ khưu, nếu các vị tỳ khưu là những vị thường gây nên các sự xung đột, cãi cọ, tranh luận, nói chuyện nhảm nhí, và tranh tụng trong hội chúng ấy nói với các vị tỳ khưu y như vy: “Này các đi đức, tốt thôi! Ngay chính hôm nay các vị hãy tiến hành lễ Pavāraāvới chúng tôi.” Các vị tỳ khưu y nên nói như vy: “Này các đi đức, các vị không có quyền hành về lễ Pavāraā của chúng tôi. Chúng tôi không thể thỉnh cầu cho đến lúc ấy.”

Này các tỳ khưu, nếu các vị tỳ khưu là những vị thường gây nên các sự xung đột, cãi cọ, tranh luận, nói chuyện nhảm nhí, và tranh tụng trong hội chúng ấy cư ng cho đến thời gian ấy, này các tỳ khưu, các vị tỳ khưu thường trú ấy cần được thông báo bởi vị tỳ khưu thường trú có kinh nghiệm, đ năng lc: “Xin các đi đc thường trú hãy lắng nghe tôi. Nếu là thời điểm thích hợp cho các đi đức, giờ đây chúng ta nên tiến hành lễ Uposatha, chúng ta nên đọc tụng giới bổn Pātimokkha. Chúng ta có thể tiến hành lễ Pavāraā vào ngày trăng tròn tới.”

Này các tỳ khưu, nếu các vị tỳ khưu là những vị thường gây nên các sự xung đột, cãi cọ, tranh luận, nói chuyện nhảm nhí, và tranh tụng trong hội chúng ấy nói với các vị tỳ khưu y như vy: “Này các đi đức, tốt thôi! Ngay chính hôm nay các vị hãy tiến hành lễ Pavāraāvới chúng tôi.” Các vị tỳ khưu y nên nói như vy: “Này các đi đức, các vị không có quyền hành về lễ Pavāraā của chúng tôi. Chúng tôi không thể thỉnh cầu cho đến lúc ấy.”

Này các tỳ khưu, nếu các vị tỳ khưu là những vị thường gây nên các sự xung đột, cãi cọ, tranh luận, nói chuyện nhảm nhí, và tranh tụng trong hội chúng ấy cư ng cho đến ngày trăng tròn ấy, này các tỳ khưu, toàn bộ tất cả các vị tỳ khưu ấy nên tiến hành lễ Pavāraā vào ngày trăng tròn tháng Kattika sắp đến tức là ngày lễ hội Cātumāsinī cho dầu không muốn.

Này các tỳ khưu, trong khi các vị tỳ khưu y đang tiến hành lễ Pavāraā, nếu vị bị bệnh đình chỉ sự thỉnh cầu của vị không bệnh, vị ấy nên đưc nói như vy: “Đi đc đang bị bệnh. Và đức Thế Tôn đã nói là vị bị bệnh không chịu đng được sự thẩm vấn. Này đi đức, hãy chờ đến khi đi đức hết bệnh. Khi hết bệnh thì đi đức sẽ buộc tội nếu mong muốn.” Và khi đưc nói như thế mà vẫn buộc tội thì phạm tội pācittiya về việc không tôn trọng.[5]

Này các tỳ khưu, trong khi các vị tỳ khưu y đang tiến hành lễ Pavāraā, nếu vị không bị bệnh đình chỉ sự thỉnh cầu của vị bị bệnh, vị ấy nên đưc nói như vy: “Này đi đức, vị tỳ khưu này bị bệnh. Và đức Thế Tôn đã nói là vị bị bệnh không chịu đng được sự thẩm vấn. Này đi đức, hãy chờ cho đến khi vị tỳ khưu này hết bệnh. Rồi đi đức sẽ buộc tội vị không bệnh nếu mong muốn.” Và khi đưc nói như thế mà vẫn buộc tội thì phạm tộipācittiya về việc không tôn trọng.

Này các tỳ khưu, trong khi các vị tỳ khưu y đang tiến hành lễ Pavāraā, nếu vị bị bệnh đình chỉ sự thỉnh cầu của vị bị bệnh, vị ấy nên đưc nói như vy: “Các đi đc đang bị bệnh. Và đức Thế Tôn đã nói là vị bị bệnh không chịu đng được sự thẩm vấn. Này đi đức, hãy chờ đến khi các vị hết bệnh. Rồi khi không bệnh đi đức sẽ buộc tội vị không bệnh nếu mong muốn.” Và khi đưc nói như thế mà vẫn buộc tội thì phạm tội pācittiya về việc không tôn trọng.

Này các tỳ khưu, trong khi các vị tỳ khưu y đang tiến hành lễ Pavāraā, nếu vị không bệnh đình chỉ sự thỉnh cầu của vị không bệnh. Cả hai nên được hội chúng thẩm vấn, tra hỏi, nhắc nhở, cho hành xử theo Pháp, rồi hội chúng nên tiến hành lễ Pavāraā.”

Vào lúc bấy giờ, có nhiều vị tỳ khưu là bn bè đng quan điểm, thân thiết, đã vào mùa (an cư) mưa tại trú xứ nọ ở trong xứ Kosala. Trong khi các vị ấy sống có sự hợp nhất, thân thiện, không cãi vã nhau, có (trạng thái) an trú lạc nào đó đã đưc đt đến. Khi ấy, các vị tỳ khưu y đã khởi ý điều này: “Trong khi chúng ta sống có sự hợp nhất, thân thiện, không cãi vã nhau, có (trạng thái) an trú lạc nào đó đã đưc đt đến. Nếu bây giờ chúng ta tiến hành lễPavāraā, cũng có thể là sau khi tiến hành lễ Pavāraā các vị tỳ khưu s ra đi du hành, như thế chúng ta sẽ bị ra khỏi (trạng thái) an trú lạc này; vậy chúng ta nên thực hành như thế nào?” Các vị đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn.

- “Này các tỳ khưu, trường hợp có nhiều vị tỳ khưu là bn bè đng quan điểm, thân thiết, đã vào mùa (an cư) mưa tại trú xứ nọ. Trong khi các vị ấy sống có sự hợp nhất, thân thiện, không cãi vã nhau, có (trạng thái) an trú lạc nào đó đã đưc đt đến. Nếu các vị tỳ khưu  đó khởi ý như vầy: “Trong khi chúng ta sống có sự hợp nhất, thân thiện, không cãi vã nhau, có (trạng thái) an trú lạc nào đó đã đưc đt đến. Nếu bây giờ chúng ta sẽ tiến hành lễ Pavāraā, cũng có thể là sau khi tiến hành lễ Pavāraā các vị tỳ khưu s ra đi du hành, như thế chúng ta sẽ bị ra khỏi (trạng thái) an trú lạc này.”

Này các tỳ khưu, ta cho phép các vị tỳ khưu ấy thực hiện sự đồng thuận (postpone) về lễ Pavāraā. Và này các tỳ khưu, nên thực hiện như vầy: Toàn bộ tất cả (các vị ấy) nên tụ hội lại một chỗ. Sau khi đã tụ hội lại, hội chúng cần được thông báo bởi vị tỳ khưu có kinh nghim, đ năng lực:

“Bạch các ngài, xin hội chúng hãy lắng nghe tôi. Trong khi chúng ta sống có sự hợp nhất, thân thiện, không cãi vã nhau, có (trạng thái) an trú lạc nào đó đã đưc đt đến. Nếu bây giờ chúng ta sẽ tiến hành lễ Pavāraā, cũng có thể là sau khi tiến hành lễ Pavāraā các vị tỳ khưu s ra đi du hành, như thế chúng ta sẽ bị ra khỏi (trạng thái) an trú lạc này. Nếu là thời điểm thích hợp cho hội chúng, hội chúng nên thực hiện sự đồng thuận về lễ Pavāraā, bây giờ chúng ta nên tiến hành lễ Uposatha, nên đọc tụng giới bổn Pātimokkha, và nên tiến hành lễ Pavāraā vào ngày trăng tròn tháng Kattika sắp đến tức là ngày lễ hội Cātumāsinī. Đây là li đề nghị.

Bạch các ngài, xin hội chúng hãy lắng nghe tôi. Trong khi chúng ta sống có sự hợp nhất, thân thiện, không cãi vã nhau, có (trạng thái) an trú lạc nào đó đã đưc đt đến. Nếu bây giờ chúng ta sẽ tiến hành lễ Pavāraā, cũng có thể là sau khi tiến hành lễ Pavāraā các vị tỳ khưu s ra đi du hành, như thế chúng ta sẽ bị ra khỏi (trạng thái) an trú lạc này. Hội chúng thực hiện sự đồng thuận về lễ Pavāraā, bây giờ sẽ tiến hành lễ Uposatha, sẽ đọc tụng giới bổn Pātimokkha, và sẽ tiến hành lễ Pavāraā vào ngày trăng tròn tháng Kattika sắp đến tức là ngày lễ hội Cātumāsinī. Đi đc nào đồng ý việc thực hiện sự đồng thuận về lễ Pavāraā, bây giờ (hội chúng) sẽ tiến hành lễ Uposatha, sẽ đọc tụng giới bổn Pātimokkha, và sẽ tiến hành lễ Pavāraā vào ngày trăng tròn tháng Kattika sắp đến tức là ngày lễ hội Cātumāsinī xin im lặng; vị nào không đồng ý có thể nói lên.

Sự đồng thuận về lễ Pavāraā đã được hội chúng thực hiện, bây giờ (hội chúng) sẽ tiến hành lễ Uposatha, sẽ đọc tụng giới bổn Pātimokkha, và sẽ tiến hành lễ Pavāraā vào ngày trăng tròn tháng Kattika sắp đến tức là ngày lễ hội Cātumāsinī. Sự việc được hội chúng đồng ý nên mới im lặng, tôi ghi nhận sự việc này là như vậy.”

Này các tỳ khưu, nếu khi sự đồng thuận về lễ Pavāraā đã được hội chúng thực hiện, có vị tỳ khưu n nói như vy: “Này các đi đức, tôi muốn ra đi du hành ở trong xứ sở. Tôi có công việc cần làm ở trong xứ sở.” Vị ấy nên đưc nói như vy: “Này đi đức, tốt lắm! Hãy thực hiện lễ Pavāraā rồi hãy đi.”

Này các tỳ khưu, nếu vị tỳ khưu y trong khi đang thỉnh cầu lại đình chỉ sự thỉnh cầu của vị tỳ khưu khác. Vị ấy nên đưc nói như vy: “Này đi đc, đi đức không có quyền hành về lễ Pavāraā của tôi, tôi sẽ không thỉnh cầu cho đến lúc ấy.” Này các tỳ khưu, nếu vị tỳ khưu y trong khi đang thỉnh cầu, có vị tỳ khưu khác đình chỉ lễ Pavāraā của vị tỳ khưu ấy. Cả hai nên được hội chúng thẩm vấn, tra hỏi, nhắc nhở, rồi cho hành xử theo Pháp.

Này các tỳ khưu, nếu vị tỳ khưu ấy sau khi hoàn tất công việc cần làm ấy ở trong xứ sở lại quay trở về trú xứ ấy trưc ngày trăng tròn tháng Kattika tức là ngày lễ hội Cātumāsinī. Này các tỳ khưu, nếu trong khi các vị tỳ khưu y đang thỉnh cầu, có vị tỳ khưu n đình chỉ lễ Pavāraṇā của vị tỳ khưu ấy. Vị nọ nên đưc nói như vy: “Này đi đc, đi đức không có quyền hành về lễ Pavāraā của tôi. Tôi đã thỉnh cầu rồi.” Này các tỳ khưu, nếu trong khi các vị tỳ khưu y đang thỉnh cầu, vị tỳ khưu y đình chỉ sự thỉnh cầu của vị tỳ khưu khác. Cả hai nên được hội chúng thẩm vấn, tra hỏi, nhắc nhở, cho hành xử theo Pháp, rồi hội chúng nên tiến hành lễ Pavāraā.”

Dứt chương Pavāraā là chương thứ ba

--ooOoo--

[3] Liên quan đến tội pācittiya 63 về việc khơi lại sự tranh tụng đã được giải quyết đúng theo pháp (ND).

[4] Ngày này chính là ngày cuối tháng âm lịch của Việt Nam, tức là ngày 29 hoặc 30 (ND).

[5] Liên quan đến tội pācittiya 54 về sự không tôn trọng (ND).



Phiên bản thư viện demo v4.5 [Tipiṭaka Tiếng Việt] Theravada