Vào lúc bấy giờ, tại trú xứ nọ vào ngày lễ Pavāraā có nhiều vị tỳ khưu thưng trú đã tụ hội lại là năm vị hoặc hơn. Các vị ấy đã không biết rằng: “Có những tỳ khưu thưng trú khác chưa đi đến.” Các vị ấy tưng là đúng Pháp, tưng là đúng Luật, là phe nhóm lại tưởng là hợp nhất, rồi đã thực hiện lễ Pavāraā. Trong khi các vị ấy đang thỉnh cầu, có các tỳ khưu thường trú khác (có số lượng) nhiều hơn đã đi đến. Các vị đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn.

- “Này các tỳ khưu, trường hợp tại trú xứ nọ vào ngày lễ Pavāraā có nhiều tỳ khưu thường trú tụ hội lại là năm vị hoặc hơn. Các vị ấy không biết rằng: “Có những tỳ khưu thưng trú khác chưa đi đến.” Các vị ấy tưng là đúng Pháp, tưng là đúng Luật, là phe nhóm lại tưởng là hợp nhất, rồi thực hiện lễ Pavāraā. Trong khi các vị ấy đang thỉnh cầu thì có các tỳ khưu thường trú khác (có số lượng) nhiều hơn đi đến. Này các tỳ khưu, các vị tỳ khưu ấy nên thỉnh cầu lại. Vô tội đối với các vị đã thỉnh cầu. (1)

Này các tỳ khưu, trường hợp tại trú xứ nọ vào ngày lễ Pavāraā có nhiều tỳ khưu thường trú tụ hội lại là năm vị hoặc hơn. Các vị ấy không biết rằng: “Có những tỳ khưu thưng trú khác chưa đi đến.” Các vị ấy tưng là đúng Pháp, tưng là đúng Luật, là phe nhóm lại tưởng là hợp nhất, rồi thực hiện lễ Pavāraā. Trong khi các vị ấy đang thỉnh cầu, có các tỳ khưu thường trú khác (có số lưng) tương đương đi đến. Các vị đã thỉnh cầu là đã thỉnh cầu tốt đẹp, các vị còn lại nên thỉnh cầu. Vô tội đối với các vị đã thỉnh cầu. (2)

Này các tỳ khưu, trường hợp tại trú xứ nọ vào ngày lễ Pavāraā có nhiều tỳ khưu thường trú tụ hội lại là năm vị hoặc hơn. Các vị ấy không biết rằng: “Có những tỳ khưu thưng trú khác chưa đi đến.” Các vị ấy tưng là đúng Pháp, tưng là đúng Luật, là phe nhóm lại tưởng là hợp nhất, rồi thực hiện lễ Pavāraā. Trong khi các vị ấy đang thỉnh cầu, có các tỳ khưu thường trú khác (có số lưng) ít hơn đi đến. Các vị đã thỉnh cầu là đã thỉnh cầu tốt đẹp, các vị còn lại nên thỉnh cầu. Vô tội đối với các vị đã thỉnh cầu. (3)

Này các tỳ khưu, trường hợp tại trú xứ nọ vào ngày lễ Pavāraā có nhiều tỳ khưu thường trú tụ hội lại là năm vị hoặc hơn. Các vị ấy không biết rằng: “Có những tỳ khưu thưng trú khác chưa đi đến.” Các vị ấy tưng là đúng Pháp, tưởng là đúng Luật, là phe nhóm lại tưởng là hợp nhất, rồi thực hiện lễ Pavāraā. Khi các vị ấy vừa thỉnh cầu xong, có các tỳ khưu thường trú khác (có số lượng) nhiều hơn đi đến. Này các tỳ khưu, các vị tỳ khưu ấy nên thỉnh cầu lại. Vô tội đối với các vị đã thỉnh cầu. (4)

Này các tỳ khưu, trường hợp tại trú xứ nọ vào ngày lễ Pavāraā có nhiều tỳ khưu thường trú tụ hội lại là năm vị hoặc hơn. Các vị ấy không biết rằng: “Có những tỳ khưu thưng trú khác chưa đi đến.” Các vị ấy tưng là đúng Pháp, tưng là đúng Luật, là phe nhóm lại tưởng là hợp nhất, rồi thực hiện lễ Pavāraā. Khi các vị ấy vừa thỉnh cầu xong, có các tỳ khưu thường trú khác (có số lưng) tương đương đi đến. Các vị đã thỉnh cầu là đã thỉnh cầu tốt đẹp, (các vị đến sau) nên thỉnh cầu trong sự hiện diện của các vị ấy. Vô tội đối với các vị đã thỉnh cầu. (5)

Này các tỳ khưu, trường hợp tại trú xứ nọ vào ngày lễ Pavāraā có nhiều tỳ khưu thường trú tụ hội lại là năm vị hoặc hơn. Các vị ấy không biết rằng: “Có những tỳ khưu thưng trú khác chưa đi đến.” Các vị ấy tưng là đúng Pháp, tưng là đúng Luật, là phe nhóm lại tưởng là hợp nhất, rồi thực hiện lễ Pavāraā. Khi các vị ấy vừa thỉnh cầu xong, có các tỳ khưu thường trú khác (có số lưng) ít hơn đi đến. Các vị đã thỉnh cầu là đã thỉnh cầu tốt đẹp, (các vị đến sau) nên thỉnh cầu trong sự hiện diện của các vị ấy. Vô tội đối với các vị đã thỉnh cầu. (6)

Này các tỳ khưu, trường hợp tại trú xứ nọ vào ngày lễ Pavāraā có nhiều tỳ khưu thường trú tụ hội lại là năm vị hoặc hơn. Các vị ấy không biết rằng: “Có những tỳ khưu thưng trú khác chưa đi đến.” Các vị ấy tưng là đúng Pháp, tưng là đúng Luật, là phe nhóm lại tưởng là hợp nhất, rồi thực hiện lễ Pavāraā. Khi các vị ấy vừa thỉnh cầu xong, trong khi tập thể chưa đứng lên, có các tỳ khưu thường trú khác (có số lượng) nhiều hơn đi đến. Này các tỳ khưu, các vị tỳ khưu ấy nên thỉnh cầu lại. Vô tội đối với các vị đã thỉnh cầu. (7)

Này các tỳ khưu, trường hợp tại trú xứ nọ vào ngày lễ Pavāraā có nhiều tỳ khưu thường trú tụ hội lại là năm vị hoặc hơn. Các vị ấy không biết rằng: “Có những tỳ khưu thưng trú khác chưa đi đến.” Các vị ấy tưng là đúng Pháp, tưng là đúng Luật, là phe nhóm lại tưởng là hợp nhất, rồi thực hiện lễ Pavāraā. Khi các vị ấy vừa thỉnh cầu xong, trong khi tập thể chưa đứng lên, có các tỳ khưu thường trú khác (có số lưng) tương đương đi đến. Các vị đã thỉnh cầu là đã thỉnh cầu tốt đẹp, (các vị đến sau) nên thỉnh cầu trong sự hiện diện của các vị ấy. Vô tội đối với các vị đã thỉnh cầu. (8)

Này các tỳ khưu, trường hợp tại trú xứ nọ vào ngày lễ Pavāraā có nhiều tỳ khưu thường trú tụ hội lại là năm vị hoặc hơn. Các vị ấy không biết rằng: “Có những tỳ khưu thưng trú khác chưa đi đến.” Các vị ấy tưng là đúng Pháp, tưng là đúng Luật, là phe nhóm lại tưởng là hợp nhất, rồi thực hiện lễ Pavāraā. Khi các vị ấy vừa thỉnh cầu xong, trong khi tập thể chưa đứng lên, (có số lưng) ít hơn đi đến. Các vị đã thỉnh cầu là đã thỉnh cầu tốt đẹp, (các vị đến sau) nên thỉnh cầu trong sự hiện diện của các vị ấy. Vô tội đối với các vị đã thỉnh cầu. (9)

Này các tỳ khưu, trường hợp tại trú xứ nọ vào ngày lễ Pavāraā có nhiều tỳ khưu thường trú tụ hội lại là năm vị hoặc hơn. Các vị ấy không biết rằng: “Có những tỳ khưu thưng trú khác chưa đi đến.” Các vị ấy tưng là đúng Pháp, tưng là đúng Luật, là phe nhóm lại tưởng là hợp nhất, rồi thực hiện lễ Pavāraā. Khi các vị ấy vừa thỉnh cầu xong, một số thuộc tập thể đã đứng lên, có các tỳ khưu thường trú khác (có số lượng) nhiều hơn đi đến. Này các tỳ khưu, các vị tỳ khưu ấy nên thỉnh cầu lại. Vô tội đối với các vị đã thỉnh cầu. (10)

Này các tỳ khưu, trường hợp tại trú xứ nọ vào ngày lễ Pavāraā có nhiều tỳ khưu thường trú tụ hội lại là năm vị hoặc hơn. Các vị ấy không biết rằng: “Có những tỳ khưu thưng trú khác chưa đi đến.” Các vị ấy tưng là đúng Pháp, tưng là đúng Luật, là phe nhóm lại tưởng là hợp nhất, rồi thực hiện lễ Pavāraā. Khi các vị ấy vừa thỉnh cầu xong, một số thuộc tập thể đã đứng lên, có các tỳ khưu thường trú khác (có số lưng) tương đương đi đến. Các vị đã thỉnh cầu là đã thỉnh cầu tốt đẹp, (các vị đến sau) nên thỉnh cầu trong sự hiện diện của các vị ấy. Vô tội đối với các vị đã thỉnh cầu. (11)

Này các tỳ khưu, trường hợp tại trú xứ nọ vào ngày lễ Pavāraā có nhiều tỳ khưu thường trú tụ hội lại là năm vị hoặc hơn. Các vị ấy không biết rằng: “Có những tỳ khưu thưng trú khác chưa đi đến.” Các vị ấy tưng là đúng Pháp, tưng là đúng Luật, là phe nhóm lại tưởng là hợp nhất, rồi thực hiện lễ Pavāraā. Khi các vị ấy vừa thỉnh cầu xong, một số thuộc tập thể đã đứng lên, (có số lưng) ít hơn đi đến. Các vị đã thỉnh cầu là đã thỉnh cầu tốt đẹp, (các vị đến sau) nên thỉnh cầu trong sự hiện diện của các vị ấy. Vô tội đối với các vị đã thỉnh cầu. (12)

Này các tỳ khưu, trường hợp tại trú xứ nọ vào ngày lễ Pavāraā có nhiều tỳ khưu thường trú tụ hội lại là năm vị hoặc hơn. Các vị ấy không biết rằng: “Có những tỳ khưu thưng trú khác chưa đi đến.” Các vị ấy tưng là đúng Pháp, tưng là đúng Luật, là phe nhóm lại tưởng là hợp nhất, rồi thực hiện lễ Pavāraā. Khi các vị ấy vừa thỉnh cầu xong, toàn bộ tập thể đã đứng lên, có các tỳ khưu thường trú khác (có số lượng) nhiều hơn đi đến. Này các tỳ khưu, các vị tỳ khưu ấy nên thỉnh cầu lại. Vô tội đối với các vị đã thỉnh cầu. (13)

Này các tỳ khưu, trường hợp tại trú xứ nọ vào ngày lễ Pavāraā có nhiều tỳ khưu thường trú tụ hội lại là năm vị hoặc hơn. Các vị ấy không biết rằng: “Có những tỳ khưu thưng trú khác chưa đi đến.” Các vị ấy tưng là đúng Pháp, tưng là đúng Luật, là phe nhóm lại tưởng là hợp nhất, rồi thực hiện lễ Pavāraā. Khi các vị ấy vừa thỉnh cầu xong, toàn bộ tập thể đã đứng lên, có các tỳ khưu thường trú khác (có số lưng) tương đương đi đến. Các vị đã thỉnh cầu là đã thỉnh cầu tốt đẹp, (các vị đến sau) nên thỉnh cầu trong sự hiện diện của các vị ấy. Vô tội đối với các vị đã thỉnh cầu. (14)

Này các tỳ khưu, trường hợp tại trú xứ nọ vào ngày lễ Pavāraā có nhiều tỳ khưu thường trú tụ hội lại là năm vị hoặc hơn. Các vị ấy không biết rằng: “Có những tỳ khưu thưng trú khác chưa đi đến.” Các vị ấy tưng là đúng Pháp, tưng là đúng Luật, là phe nhóm lại tưởng là hợp nhất, rồi thực hiện lễ Pavāraā. Khi các vị ấy vừa thỉnh cầu xong, toàn bộ tập thể đã đứng lên, (có số lưng) ít hơn đi đến. Các vị đã thỉnh cầu là đã thỉnh cầu tốt đẹp, (các vị đến sau) nên thỉnh cầu trong sự hiện diện của các vị ấy. Vô tội đối với các vị đã thỉnh cầu. (15)

Dứt mưi lăm trường hợp vô tội.

--ooOoo--

Này các tỳ khưu, trường hợp tại trú xứ nọ vào ngày lễ Pavāraā có nhiều tỳ khưu thường trú tụ hội lại là năm vị hoặc hơn. Các vị ấy biết rằng: “Có những tỳ khưu thưng trú khác chưa đi đến.” Các vị ấy ng là đúng Pháp, tưng là đúng Luật, là phe nhóm và có sự nhận biết là phe nhóm, rồi thực hiện lễ Pavāraā. Trong khi các vị ấy đang thỉnh cầu, có các tỳ khưu thường trú khác (có số lượng) nhiều hơn đi đến. Này các tỳ khưu, các vị tỳ khưu ấy nên thỉnh cầu lại. Các vị đã thỉnh cầu thì phạm tội dukkaṭa. (1)

Này các tỳ khưu, trường hợp tại trú xứ nọ vào ngày lễ Pavāraā có nhiều tỳ khưu thường trú tụ hội lại là năm vị hoặc hơn. Các vị ấy biết rằng: “Có những tỳ khưu thưng trú khác chưa đi đến.” Các vị ấy tưng là đúng Pháp, tưng là đúng Luật, là phe nhóm và có sự nhận biết là phe nhóm, rồi thực hiện lễ Pavāraā. Trong khi các vị ấy đang thỉnh cầu, có các tỳ khưu thường trú khác (có số lưng) tương đương đi đến. Các vị đã thỉnh cầu là đã thỉnh cầu tốt đẹp, các vị còn lại nên thỉnh cầu. Các vị đã thỉnh cầu thì phạm tội dukkaṭa. (2)

Này các tỳ khưu, trường hợp tại trú xứ nọ vào ngày lễ Pavāraā có nhiều tỳ khưu thường trú tụ hội lại là năm vị hoặc hơn. Các vị ấy biết rằng: “Có những tỳ khưu thưng trú khác chưa đi đến.” Các vị ấy tưng là đúng Pháp, tưng là đúng Luật, là phe nhóm và có sự nhận biết là phe nhóm, rồi thực hiện lễ Pavāraā. Trong khi các vị ấy đang thỉnh cầu, (có số lưng) ít hơn đi đến. Các vị đã thỉnh cầu là đã thỉnh cầu tốt đẹp, các vị còn lại nên thỉnh cầu. Các vị đã thỉnh cầu thì phạm tội dukkaṭa. (3)

Này các tỳ khưu, trường hợp tại trú xứ nọ vào ngày lễ Pavāraā có nhiều tỳ khưu thường trú tụ hội lại là năm vị hoặc hơn. Các vị ấy biết rằng: “Có những tỳ khưu thưng trú khác chưa đi đến.” Các vị ấy tưng là đúng Pháp, tưng là đúng Luật, là phe nhóm và có sự nhận biết là phe nhóm, rồi thực hiện lễ Pavāraā. Khi các vị ấy vừa thỉnh cầu xong, có các tỳ khưu thường trú khác (có số lượng) nhiều hơn ... tương đương ... ít hơn đi đến. ―(như trên)― trong khi tập thể chưa đứng lên, ... nhiều hơn ... tương đương ... ít hơn ―(như trên)― một số thuộc tập thể đã đứng lên, ... nhiều hơn ... tương đương ... ít hơn ―(như trên)― toàn bộ tập thể đã đứng lên, có các tỳ khưu thường trú khác (có số lượng) nhiều hơn ... tương đương ... ít hơn đi đến. Các vị đã thỉnh cầu là đã thỉnh cầu tốt đẹp, (các vị đến sau) nên thỉnh cầu trong sự hiện diện của các vị ấy. Các vị đã thỉnh cầu thì phạm tội dukkaṭa. (4-15)

Dứt mưi lăm trường hợp là phe nhóm và có sự nhận biết là phe nhóm.

--ooOoo--

Này các tỳ khưu, trường hợp tại trú xứ nọ vào ngày lễ Pavāraā có nhiều tỳ khưu thường trú tụ hội lại là năm vị hoặc hơn. Các vị ấy biết rằng: “Có những tỳ khưu thưng trú khác chưa đi đến.” Các vị ấy có sự nghi ngờ rằng: “Lễ Pavāraā của chúng ta được phép thực hiện hay không được phép?” rồi thực hiện lễ Pavāraā. Trong khi các vị ấy đang thỉnh cầu, có các tỳ khưu thường trú khác (có số lượng) nhiều hơn đi đến. Này các tỳ khưu, các vị tỳ khưu ấy nên thỉnh cầu lại. Các vị đã thỉnh cầu thì phạm tội dukkaṭa. (1)

Này các tỳ khưu, trường hợp tại trú xứ nọ vào ngày lễ Pavāraā có nhiều tỳ khưu thường trú tụ hội lại là năm vị hoặc hơn. Các vị ấy biết rằng: “Có những tỳ khưu thưng trú khác chưa đi đến.” Các vị ấy có sự nghi ngờ rằng: “Lễ Pavāraā của chúng ta được phép thực hiện hay không được phép?” rồi thực hiện lễ Pavāraā. Trong khi các vị ấy đang thỉnh cầu, có các tỳ khưu thường trú khác (có số lưng) tương đương đi đến. Các vị đã thỉnh cầu là đã thỉnh cầu tốt đẹp, các vị còn lại nên thỉnh cầu. Các vị đã thỉnh cầu thì phạm tội dukkaṭa. (2)

Này các tỳ khưu, trường hợp tại trú xứ nọ vào ngày lễ Pavāraā có nhiều tỳ khưu thường trú tụ hội lại là năm vị hoặc hơn. Các vị ấy biết rằng: “Có những tỳ khưu thưng trú khác chưa đi đến.” Các vị ấy có sự nghi ngờ rằng: “Lễ Pavāraā của chúng ta được phép thực hiện hay không được phép?” rồi thực hiện lễ Pavāraā. Trong khi các vị ấy đang thỉnh cầu, có các tỳ khưu thường trú khác (có số lưng) ít hơn đi đến. Các vị đã thỉnh cầu là đã thỉnh cầu tốt đẹp, các vị còn lại nên thỉnh cầu. Các vị đã thỉnh cầu thì phạm tội dukkaṭa. (3)

Này các tỳ khưu, trường hợp tại trú xứ nọ vào ngày lễ Pavāraā có nhiều tỳ khưu thường trú tụ hội lại là năm vị hoặc hơn. Các vị ấy biết rằng: “Có những tỳ khưu thưng trú khác chưa đi đến.” Các vị ấy có sự nghi ngờ rằng: “Lễ Pavāraā của chúng ta được phép thực hiện hay không được phép?” rồi thực hiện lễ Pavāraā. Khi các vị ấy vừa thỉnh cầu xong, ―(như trên)― nhiu hơn ... tương đương ... ít hơn ―(như trên)― trong khi tập thể chưa đứng lên, ... nhiều hơn ... tương đương ... ít hơn ―(như trên)― một số thuộc tập thể đã đứng lên, ... nhiều hơn ... tương đương ... ít hơn ―(như trên)― toàn bộ tập thể đã đứng lên, có các tỳ khưu thường trú khác (có số lượng) nhiều hơn ... tương đương ... ít hơn đi đến. Các vị đã thỉnh cầu là đã thỉnh cầu tốt đẹp, (các vị đến sau) nên thỉnh cầu trong sự hiện diện của các vị ấy. Các vị đã thỉnh cầu thì phạm tội dukkaṭa. (4-15)

Dứt mưi lăm trường hợp có sự nghi ngờ.

--ooOoo--

Này các tỳ khưu, trường hợp tại trú xứ nọ vào ngày lễ Pavāraā có nhiều tỳ khưu thường trú tụ hội lại là năm vị hoặc hơn. Các vị ấy biết rằng: “Có những tỳ khưu thưng trú khác chưa đi đến.” Các vị có sự ngần ngại rằng: “Lễ Pavāraā vẫn được phép thực hiện đối với chúng ta, chứ không phải không đưc phép đối với chúng ta” rồi thực hiện lễ Pavāraā. Trong khi các vị ấy đang thỉnh cầu, có các tỳ khưu thường trú khác (có số lượng) nhiều hơn đi đến. Này các tỳ khưu, các vị tỳ khưu ấy nên thỉnh cầu lại. Các vị đã thỉnh cầu thì phạm tội dukkaṭa. (1)

Này các tỳ khưu, trường hợp tại trú xứ nọ vào ngày lễ Pavāraā có nhiều tỳ khưu thường trú tụ hội lại là năm vị hoặc hơn. Các vị ấy biết rằng: “Có những tỳ khưu thưng trú khác chưa đi đến.” Các vị có sự ngần ngại rằng: “Lễ Pavāraā vẫn được phép thực hiện đối với chúng ta, chứ không phải không đưc phép đối với chúng ta” rồi thực hiện lễ Pavāraā. Trong khi các vị ấy đang thỉnh cầu, có các tỳ khưu thường trú khác (có số lưng) tương đương đi đến. Các vị đã thỉnh cầu là đã thỉnh cầu tốt đẹp, các vị còn lại nên thỉnh cầu. Các vị đã thỉnh cầu thì phạm tội dukkaṭa. (2)

Này các tỳ khưu, trường hợp tại trú xứ nọ vào ngày lễ Pavāraā có nhiều tỳ khưu thường trú tụ hội lại là năm vị hoặc hơn. Các vị ấy biết rằng: “Có những tỳ khưu thưng trú khác chưa đi đến.” Các vị có sự ngần ngại rằng: “Lễ Pavāraā vẫn được phép thực hiện đối với chúng ta, chứ không phải không đưc phép đối với chúng ta” rồi thực hiện lễ Pavāraā. Trong khi các vị ấy đang thỉnh cầu, có các tỳ khưu thường trú khác (có số lưng) ít hơn đi đến. Các vị đã thỉnh cầu là đã thỉnh cầu tốt đẹp, các vị còn lại nên thỉnh cầu. Các vị đã thỉnh cầu thì phạm tội dukkaṭa. (3)

Này các tỳ khưu, trường hợp tại trú xứ nọ vào ngày lễ Pavāraā có nhiều tỳ khưu thường trú tụ hội lại là năm vị hoặc hơn. Các vị ấy biết rằng: “Có những tỳ khưu thưng trú khác chưa đi đến.” Các vị ấy có sự ngần ngại rằng: “Lễ Pavāraā vẫn được phép thực hiện đối với chúng ta, chứ không phải không đưc phép đối với chúng ta” rồi thực hiện lễ Pavāraā. Khi các vị ấy vừa thỉnh cầu xong, ―(như trên)― nhiu hơn ... tương đương ... ít hơn ―(như trên) trong khi tập thể chưa đứng lên, ... nhiều hơn ... tương đương ... ít hơn ―(như trên)― một số thuộc tập thể đã đứng lên, ... nhiều hơn ... tương đương ... ít hơn ―(như trên)― toàn bộ tập thể đã đứng lên, có các tỳ khưu thường trú khác (có số lượng) nhiều hơn ... tương đương ... ít hơn đi đến. Các vị đã thỉnh cầu là đã thỉnh cầu tốt đẹp, (các vị đến sau) nên thỉnh cầu trong sự hiện diện của các vị ấy. Các vị đã thỉnh cầu thì phạm tội dukkaṭa. (4-15)

Dứt mưi lăm trường hợp có sự ngần ngại.

--ooOoo--

Này các tỳ khưu, trường hợp tại trú xứ nọ vào ngày lễ Pavāraā có nhiều tỳ khưu thường trú tụ hội lại là năm vị hoặc hơn. Các vị ấy biết rằng: “Có những tỳ khưu thưng trú khác chưa đi đến.” Các vị ấy có dự tính chia rẽ (nghĩ rằng): “Các vị này tiêu mất đi! Các vị này biến mất đi! Ai mà cn đến các vị ấy?” rồi thực hiện lễ Pavāraā. Trong khi các vị ấy đang thỉnh cầu, có các tỳ khưu thường trú khác (có số lượng) nhiều hơn đi đến. Này các tỳ khưu, các vị tỳ khưu ấy nên thỉnh cầu lại. Các vị đã thỉnh cầu thì phạm tội thullaccaya. (1)

Này các tỳ khưu, trường hợp tại trú xứ nọ vào ngày lễ Pavāraā có nhiều tỳ khưu thường trú tụ hội lại là năm vị hoặc hơn. Các vị ấy biết rằng: “Có những tỳ khưu thưng trú khác chưa đi đến.” Các vị ấy có dự tính chia rẽ (nghĩ rằng): “Các vị này tiêu mất đi! Các vị này biến mất đi! Ai mà cn đến các vị ấy?” rồi thực hiện lễ Pavāraā. Trong khi các vị ấy đang thỉnh cầu, có các tỳ khưu thường trú khác (có số lưng) tương đương đi đến. Các vị đã thỉnh cầu là đã thỉnh cầu tốt đẹp, các vị còn lại nên thỉnh cầu. Các vị đã thỉnh cầu thì phạm tộithullaccaya. (2)

Này các tỳ khưu, trường hợp tại trú xứ nọ vào ngày lễ Pavāraā có nhiều tỳ khưu thường trú tụ hội lại là năm vị hoặc hơn. Các vị ấy biết rằng: “Có những tỳ khưu thưng trú khác chưa đi đến.” Các vị ấy có dự tính chia rẽ (nghĩ rằng): “Các vị này tiêu mất đi! Các vị này biến mất đi! Ai mà cn đến các vị ấy?” rồi thực hiện lễ Pavāraā. Trong khi các vị ấy đang thỉnh cầu, có các tỳ khưu thường trú khác (có số lưng) ít hơn đi đến. Các vị đã thỉnh cầu là đã thỉnh cầu tốt đẹp, các vị còn lại nên thỉnh cầu. Các vị đã thỉnh cầu thì phạm tộithullaccaya. (3)

Này các tỳ khưu, trường hợp tại trú xứ nọ vào ngày lễ Pavāraā có nhiều tỳ khưu thường trú tụ hội lại là năm vị hoặc hơn. Các vị ấy biết rằng: “Có những tỳ khưu thưng trú khác chưa đi đến.” Các vị ấy có dự tính chia rẽ (nghĩ rằng): “Các vị này tiêu mất đi! Các vị này biến mất đi! Ai mà cn đến các vị ấy?” rồi thực hiện lễ Pavāraā. Khi các vị ấy vừa thỉnh cầu xong, có các tỳ khưu thường trú khác (có số lượng) nhiều hơn đi đến. Này các tỳ khưu, các vị tỳ khưu ấy nên thỉnh cầu lại. Các vị đã thỉnh cầu thì phạm tội thullaccaya. (4)

Này các tỳ khưu, trường hợp tại trú xứ nọ vào ngày lễ Pavāraā có nhiều tỳ khưu thường trú tụ hội lại là năm vị hoặc hơn. Các vị ấy biết rằng: “Có những tỳ khưu thưng trú khác chưa đi đến.” Các vị ấy có dự tính chia rẽ (nghĩ rằng): “Các vị này tiêu mất đi! Các vị này biến mất đi! Ai mà cn đến các vị ấy?” rồi thực hiện lễ Pavāraā. Khi các vị ấy vừa thỉnh cầu xong, có các tỳ khưu thường trú khác (có số lưng) tương đương đi đến. Các vị đã thỉnh cầu là đã thỉnh cầu tốt đẹp, các vị còn lại nên thỉnh cầu. Các vị đã thỉnh cầu thì phạm tộithullaccaya. (5)

Này các tỳ khưu, trường hợp tại trú xứ nọ vào ngày lễ Pavāraā có nhiều tỳ khưu thường trú tụ hội lại là năm vị hoặc hơn. Các vị ấy biết rằng: “Có những tỳ khưu thưng trú khác chưa đi đến.” Các vị ấy có dự tính chia rẽ (nghĩ rằng): “Các vị này tiêu mất đi! Các vị này biến mất đi! Ai mà cn đến các vị ấy?” rồi thực hiện lễ Pavāraā. Khi các vị ấy vừa thỉnh cầu xong, có các tỳ khưu thường trú khác (có số lưng) ít hơn đi đến. Các vị đã thỉnh cầu là đã thỉnh cầu tốt đẹp, (các vị đến sau) nên thỉnh cầu trong sự hiện diện của các vị ấy. Các vị đã thỉnh cầu thì phạm tội thullaccaya. (6)

Này các tỳ khưu, trường hợp tại trú xứ nọ vào ngày lễ Pavāraā có nhiều tỳ khưu thường trú tụ hội lại là năm vị hoặc hơn. Các vị ấy biết rằng: “Có những tỳ khưu thưng trú khác chưa đi đến.” Các vị ấy có dự tính chia rẽ (nghĩ rằng): “Các vị này tiêu mất đi! Các vị này biến mất đi! Ai mà cn đến các vị ấy?” rồi thực hiện lễ Pavāraā. Khi các vị ấy vừa thỉnh cầu xong, trong khi tập thể chưa đứng lên, có các tỳ khưu thường trú khác (có số lượng) nhiều hơn đi đến. Này các tỳ khưu, các vị tỳ khưu ấy nên thỉnh cầu lại. Các vị đã thỉnh cầu thì phạm tội thullaccaya. (7)

Này các tỳ khưu, trường hợp tại trú xứ nọ vào ngày lễ Pavāraā có nhiều tỳ khưu thường trú tụ hội lại là năm vị hoặc hơn. Các vị ấy biết rằng: “Có những tỳ khưu thưng trú khác chưa đi đến.” Các vị ấy có dự tính chia rẽ (nghĩ rằng): “Các vị này tiêu mất đi! Các vị này biến mất đi! Ai mà cn đến các vị ấy?” rồi thực hiện lễ Pavāraā. Khi các vị ấy vừa thỉnh cầu xong, trong khi tập thể chưa đứng lên, có các tỳ khưu thường trú khác (có số lưng) tương đương đi đến. Các vị đã thỉnh cầu là đã thỉnh cầu tốt đẹp, các vị còn lại nên thỉnh cầu. Các vị đã thỉnh cầu thì phạm tội thullaccaya. (8)

Này các tỳ khưu, trường hợp tại trú xứ nọ vào ngày lễ Pavāraā có nhiều tỳ khưu thường trú tụ hội lại là năm vị hoặc hơn. Các vị ấy biết rằng: “Có những tỳ khưu thưng trú khác chưa đi đến.” Các vị ấy có dự tính chia rẽ (nghĩ rằng): “Các vị này tiêu mất đi! Các vị này biến mất đi! Ai mà cn đến các vị ấy?” rồi thực hiện lễ Pavāraā. Khi các vị ấy vừa thỉnh cầu xong, trong khi tập thể chưa đứng lên, có các tỳ khưu thường trú khác (có số lưng) ít hơn đi đến. Các vị đã thỉnh cầu là đã thỉnh cầu tốt đẹp, (các vị đến sau) nên thỉnh cầu trong sự hiện diện của các vị ấy. Các vị đã thỉnh cầu thì phạm tội thullaccaya. (9)

Này các tỳ khưu, trường hợp tại trú xứ nọ vào ngày lễ Pavāraā có nhiều tỳ khưu thường trú tụ hội lại là năm vị hoặc hơn. Các vị ấy biết rằng: “Có những tỳ khưu thưng trú khác chưa đi đến.” Các vị ấy có dự tính chia rẽ (nghĩ rằng): “Các vị này tiêu mất đi! Các vị này biến mất đi! Ai mà cn đến các vị ấy?” rồi thực hiện lễ Pavāraā. Khi các vị ấy vừa thỉnh cầu xong, một số thuộc tập thể đã đứng lên, có các tỳ khưu thường trú khác (có số lượng) nhiều hơn đi đến. Này các tỳ khưu, các vị tỳ khưu ấy nên thỉnh cầu lại. Các vị đã thỉnh cầu thì phạm tội thullaccaya. (10)

Này các tỳ khưu, trường hợp tại trú xứ nọ vào ngày lễ Pavāraā có nhiều tỳ khưu thường trú tụ hội lại là năm vị hoặc hơn. Các vị ấy biết rằng: “Có những tỳ khưu thưng trú khác chưa đi đến.” Các vị ấy có dự tính chia rẽ (nghĩ rằng): “Các vị này tiêu mất đi! Các vị này biến mất đi! Ai mà cn đến các vị ấy?” rồi thực hiện lễ Pavāraā. Khi các vị ấy vừa thỉnh cầu xong, một số thuộc tập thể đã đứng lên, có các tỳ khưu thường trú khác (có số lưng) tương đương đi đến. Các vị đã thỉnh cầu là đã thỉnh cầu tốt đẹp, các vị còn lại nên thỉnh cầu. Các vị đã thỉnh cầu thì phạm tội thullaccaya. (11)

Này các tỳ khưu, trường hợp tại trú xứ nọ vào ngày lễ Pavāraā có nhiều tỳ khưu thường trú tụ hội lại là năm vị hoặc hơn. Các vị ấy biết rằng: “Có những tỳ khưu thưng trú khác chưa đi đến.” Các vị ấy có dự tính chia rẽ (nghĩ rằng): “Các vị này tiêu mất đi! Các vị này biến mất đi! Ai mà cn đến các vị ấy?” rồi thực hiện lễ Pavāraā. Khi các vị ấy vừa thỉnh cầu xong, một số thuộc tập thể đã đứng lên, có các tỳ khưu thường trú khác (có số lưng) ít hơn đi đến. Các vị đã thỉnh cầu là đã thỉnh cầu tốt đẹp, (các vị đến sau) nên thỉnh cầu trong sự hiện diện của các vị ấy. Các vị đã thỉnh cầu thì phạm tội thullaccaya. (12)

Này các tỳ khưu, trường hợp tại trú xứ nọ vào ngày lễ Pavāraā có nhiều tỳ khưu thường trú tụ hội lại là năm vị hoặc hơn. Các vị ấy biết rằng: “Có những tỳ khưu thưng trú khác chưa đi đến.” Các vị ấy có dự tính chia rẽ (nghĩ rằng): “Các vị này tiêu mất đi! Các vị này biến mất đi! Ai mà cn đến các vị ấy?” rồi thực hiện lễ Pavāraā. Khi các vị ấy vừa thỉnh cầu xong, toàn bộ tập thể đã đứng lên, có các tỳ khưu thường trú khác (có số lượng) nhiều hơn đi đến. Này các tỳ khưu, các vị tỳ khưu ấy nên thỉnh cầu lại. Các vị đã thỉnh cầu thì phạm tội thullaccaya. (13)

Này các tỳ khưu, trường hợp tại trú xứ nọ vào ngày lễ Pavāraā có nhiều tỳ khưu thường trú tụ hội lại là năm vị hoặc hơn. Các vị ấy biết rằng: “Có những tỳ khưu thưng trú khác chưa đi đến.” Các vị ấy có dự tính chia rẽ (nghĩ rằng): “Các vị này tiêu mất đi! Các vị này biến mất đi! Ai mà cn đến các vị ấy?” rồi thực hiện lễ Pavāraā. Khi các vị ấy vừa thỉnh cầu xong, toàn bộ tập thể đã đứng lên, có các tỳ khưu thường trú khác (có số lưng) tương đương đi đến. Các vị đã thỉnh cầu là đã thỉnh cầu tốt đẹp, các vị còn lại nên thỉnh cầu. Các vị đã thỉnh cầu thì phạm tội thullaccaya. (14)

Này các tỳ khưu, trường hợp tại trú xứ nọ vào ngày lễ Pavāraā có nhiều tỳ khưu thường trú tụ hội lại là năm vị hoặc hơn. Các vị ấy biết rằng: “Có những tỳ khưu thưng trú khác chưa đi đến.” Các vị ấy có dự tính chia rẽ (nghĩ rằng): “Các vị này tiêu mất đi! Các vị này biến mất đi! Ai mà cn đến các vị ấy?” rồi thực hiện lễ Pavāraā. Khi các vị ấy vừa thỉnh cầu xong, toàn bộ tập thể đã đứng lên, có các tỳ khưu thường trú khác (có số lưng) ít hơn đi đến. Các vị đã thỉnh cầu là đã thỉnh cầu tốt đẹp, (các vị đến sau) nên thỉnh cầu trong sự hiện diện của các vị ấy. Các vị đã thỉnh cầu thì phạm tội thullaccaya. (15)

Dứt mưi lăm trường hợp có dự tính chia rẽ.

Dứt hai mươi lăm nhóm ba.

--ooOoo--

Này các tỳ khưu, trường hợp tại trú xứ nọ vào ngày lễ Pavāraā có nhiều tỳ khưu thường trú tụ hội lại là năm vị hoặc hơn. Các vị ấy không biết rằng: “Các vị tỳ khưu thưng trú khác đang đi vào trong ranh gii,” ―(như trên)― Các vị ấy không biết rằng: “Các vị tỳ khưu thưng trú khác đã đi vào trong ranh gii,” ―(như trên)― Các vị ấy không nhìn thấy các vị tỳ khưu thưng trú khác đang đi vào trong ranh giới, ―(như trên)― Các vị ấy không nhìn thấy các vị tỳ khưu thưng trú khác đã đi vào trong ranh gii, ―(như trên)― Các vị ấy không nghe rằng: “Các vị tỳ khưu thưng trú khác đang đi vào trong ranh gii,” ―(như trên)― Các vị ấy không nghe rằng: “Các vị tỳ khưu thưng trú khác đã đi vào trong ranh gii,” ―(như trên)― Theo phương thức của một trăm by mươi lăm nhóm ba về vị thường trú với vị thường trú, về vị vãng lai với vị thường trú, về vị thường trú với vị vãng lai, về vị vãng lai với vị vãng lai, bằng cách thức thêm vào những phần tương tự thì tạo ra được bảy trăm nhóm ba.

Này các tỳ khưu, trường hợp ngày mười bốn là của các tỳ khưu thưng trú, ngày mưi lăm là của các tỳ khưu vãng lai. Nếu các vị thường trú (có số lượng) nhiều hơn thì các vị vãng lai nên thuận theo các vị thường trú. Nếu (có số lưng) tương đương thì các vị vãng lai nên thuận theo các vị thường trú. Nếu các vị vãng lai (có số lượng) nhiều hơn thì các vị thường trú nên thuận theo các vị vãng lai.

Này các tỳ khưu, trường hợp ngày mười lăm là của các tỳ khưu thưng trú, ngày mười bốn là của các tỳ khưu vãng lai. Nếu các vị thường trú (có số lượng) nhiều hơn thì các vị vãng lai nên thuận theo các vị thường trú. Nếu (có số lưng) tương đương thì các vị vãng lai nên thuận theo các vị thường trú. Nếu các vị vãng lai (có số lượng) nhiều hơn thì các vị thường trú nên thuận theo các vị vãng lai.

Này các tỳ khưu, trường hợp ngày đầu tháng là của các tỳ khưu thưng trú, ngày mưi lăm là của các tỳ khưu vãng lai. Nếu các vị thường trú (có số lượng) nhiều hơn và các v thường trú không mong muốn thì không nên ban cho sự hợp nhất đến các vị vãng lai; các vị vãng lai nên đi ra khỏi ranh giới rồi tiến hành lễ Pavāraā. Nếu (có số lưng) tương đương và các v thường trú không mong muốn thì không nên ban cho sự hợp nhất đến các vị vãng lai; các vị vãng lai nên đi ra khỏi ranh giới rồi tiến hành lễ Pavāraā. Nếu các vị vãng lai (có số lượng) nhiều hơn thì các vị thường trú nên ban cho sự hợp nhất đến các vị vãng lai hoặc là nên đi ra khỏi ranh giới.

Này các tỳ khưu, trường hợp ngày mưi lăm là của các tỳ khưu thưng trú, ngày đầu tháng là của các tỳ khưu vãng lai. Nếu các vị thường trú (có số lượng) nhiều hơn thì các vị vãng lai nên ban cho sự hợp nhất đến các vị thường trú hoặc là nên đi ra khỏi ranh giới. Nếu (có số lưng) tương đương thì các vị vãng lai nên ban cho sự hợp nhất đến các vị thường trú hoặc là nên đi ra khỏi ranh giới. Nếu các vị vãng lai (có số lượng) nhiều hơn và các vị vãng lai không mong muốn thì không nên ban cho sự hợp nhất đến các vị thường trú; các vị thưng trú nên đi ra khỏi ranh giới rồi tiến hành lễ Pavāraā.

Này các tỳ khưu, trường hợp các tỳ khưu vãng lai nhìn thấy sự biểu hiện của việc cư trú, đc điểm của việc cư trú, hin tướng của việc cư trú, dấu hiệu của việc cư trú của các vị tỳ khưu thưng trú (như là) giường ghế nệm gối được sắp xếp cẩn thận, nước uống nước rửa khéo được bố trí, phòng ốc được quét dọn sạch sẽ, sau khi nhìn thấy khởi lên nghi ngờ: “Có các tỳ khưu thường trú hay không có?” Các vị nghi ngờ nhưng không tìm kiếm, sau khi không tìm kiếm rồi tiến hành lễ Pavāraā thì phạm tội dukkaṭa. ―(như trên)― Các vị nghi ngờ rồi tìm kiếm, sau khi tìm kiếm không nhìn thấy, sau khi không nhìn thấy rồi tiến hành lễ Pavāraā thì vô tội. Các vị nghi ngờ rồi tìm kiếm, sau khi tìm kiếm thì nhìn thấy, sau khi nhìn thấy rồi tiến hành lễ Pavāraā chung thì vô tội. Các vị nghi ngờ rồi tìm kiếm, sau khi tìm kiếm thì nhìn thấy, sau khi nhìn thấy rồi tiến hành lễ Pavāraā riêng rẽ thì phạm tội dukkaṭa. Các vị nghi ngờ rồi tìm kiếm, sau khi tìm kiếm thì nhìn thấy, sau khi nhìn thấy có dự tính chia rẽ (nói rằng): “Các vị này tiêu mất đi! Các vị này biến mất đi! Ai mà cn đến các vị ấy?” rồi tiến hành lễ Pavāraā thì phạm tội thullaccaya.

Này các tỳ khưu, trường hợp các tỳ khưu vãng lai nghe được sự biểu hiện của việc cư trú, đc điểm của việc cư trú, hin tướng của việc cư trú, dấu hiệu của việc cư trú của các vị tỳ khưu thưng trú (như là) tiếng bước chân của những vị đang đi kinh hành, tiếng học bài, tiếng đằng hắng, tiếng hắt hơi, sau khi nghe khởi lên nghi ngờ: “Có các tỳ khưu thường trú hay không có?” Các vị nghi ngờ nhưng không tìm kiếm, sau khi không tìm kiếm rồi tiến hành lễ Pavāraā thì phạm tội dukkaṭa. ―(như trên)― Các vị nghi ngờ rồi tìm kiếm, sau khi tìm kiếm không nhìn thấy, sau khi không nhìn thấy rồi tiến hành lễ Pavāraā thì vô tội. ―(như trên)― Các vị nghi ngờ rồi tìm kiếm, sau khi tìm kiếm thì nhìn thấy, sau khi nhìn thấy rồi tiến hành lễ Pavāraā chung thì vô tội. ―(như trên)― Các vị nghi ngờ rồi tìm kiếm, sau khi tìm kiếm thì nhìn thấy, sau khi nhìn thấy rồi tiến hành lễ Pavāraā riêng rẽ thì phạm tội dukkaṭa. ―(như trên)― Các vị nghi ngờ rồi tìm kiếm, sau khi tìm kiếm thì nhìn thấy, sau khi nhìn thấy có dự tính chia rẽ (nói rằng): “Các vị này tiêu mất đi! Các vị này biến mất đi! Ai mà cn đến các vị ấy?” rồi tiến hành lễ Pavāraā thì phạm tội thullaccaya.

Này các tỳ khưu, trường hợp các tỳ khưu thường trú nhìn thấy sự biểu hiện của việc đi đến, đc điểm của việc đi đến, hiện tướng của việc đi đến, dấu hiệu của việc đi đến của các tỳ khưu vãng lai (như là) bình bát khác lạ, y khác lạ, vật lót ngồi khác lạ, sự vung vãi nước rửa các bàn chân, sau khi nhìn thấy khởi lên nghi ngờ: “Có các vị tỳ khưu vãng lai hay không có?” Các vị nghi ngờ nhưng không tìm kiếm, sau khi không tìm kiếm rồi tiến hành lễ Pavāraā thì phạm tội dukkaṭa. ―(như trên)― Các vị nghi ngờ rồi tìm kiếm, sau khi tìm kiếm không nhìn thấy, sau khi không nhìn thấy rồi tiến hành lễ Pavāraā thì vô tội. ―(như trên)― Các vị nghi ngờ rồi tìm kiếm, sau khi tìm kiếm thì nhìn thấy, sau khi nhìn thấy rồi tiến hành lễ Pavāraā chung thì vô tội. ―(như trên)― Các vị nghi ngờ rồi tìm kiếm, sau khi tìm kiếm thì nhìn thấy, sau khi nhìn thấy rồi tiến hành lễ Pavāraā riêng rẽ thì phạm tộidukkaṭa. ―(như trên)― Các vị nghi ngờ rồi tìm kiếm, sau khi tìm kiếm thì nhìn thấy, sau khi nhìn thấy có dự tính chia rẽ (nói rằng): “Các vị này tiêu mất đi! Các vị này biến mất đi! Ai mà cn đến các vị ấy?” rồi tiến hành lễ Pavāraā thì phạm tội thullaccaya.

Này các tỳ khưu, trường hợp các tỳ khưu thưng trú nghe được sự biểu hiện của việc đi đến, đc điểm của việc đi đến, hiện tướng của việc đi đến, dấu hiệu của việc đi đến của các tỳ khưu vãng lai (như là) tiếng bước chân của các vị đang đi đến, tiếng động gây nên bởi các đôi dép, tiếng đằng hắng, tiếng hắt hơi, sau khi nghe khởi lên nghi ngờ: “Có các vị tỳ khưu vãng lai hay không có?” Các vị nghi ngờ nhưng không tìm kiếm, sau khi không tìm kiếm rồi tiến hành lễ Pavāraā thì phạm tội dukkaṭa. ―(như trên)― Các vị nghi ngờ rồi tìm kiếm, sau khi tìm kiếm không nhìn thấy, sau khi không nhìn thấy rồi tiến hành lễ Pavāraā thì vô tội. ―(như trên)― Các vị nghi ngờ rồi tìm kiếm, sau khi tìm kiếm thì nhìn thấy, sau khi nhìn thấy rồi tiến hành lễ Pavāraā chung thì vô tội. ―(như trên)― Các vị nghi ngờ rồi tìm kiếm, sau khi tìm kiếm thì nhìn thấy, sau khi nhìn thấy rồi tiến hành lễ Pavāraā riêng rẽ thì phạm tội dukkaṭa. ―(như trên)― Các vị nghi ngờ rồi tìm kiếm, sau khi tìm kiếm thì nhìn thấy, sau khi nhìn thấy có dự tính chia rẽ (nói rằng): “Các vị này tiêu mất đi! Các vị này biến mất đi! Ai mà cn đến các vị ấy?” rồi tiến hành lễ Pavāraā thì phạm tội thullaccaya.

Này các tỳ khưu, trường hợp các tỳ khưu vãng lai nhìn thấy các tỳ khưu thường trú thuộc nhóm cộng trú khác. Các vị ấy nhận lầm là thuộc cùng nhóm cộng trú, sau khi nhận lầm là thuộc cùng nhóm cộng trú rồi không hỏi, sau khi không hỏi rồi tiến hành lễ Pavāraāchung thì vô tội. ―(như trên)― Các vị ấy hỏi, sau khi hỏi vẫn không thay đi (quan đim), sau khi không thay đi (quan điểm) lại tiến hành lễ Pavāraā chung thì phạm tội dukkaṭa. ―(như trên)― Các vị ấy hỏi, sau khi hỏi vẫn không thay đi (quan điểm), sau khi không thay đi (quan điểm) rồi tiến hành lễ Pavāraā riêng rẽ thì vô tội.

Này các tỳ khưu, trường hợp các tỳ khưu vãng lai nhìn thấy các tỳ khưu thường trú thuộc cùng nhóm cộng trú. Các vị ấy nhận lầm thuộc nhóm cộng trú khác, sau khi nhận lầm thuộc nhóm cộng trú khác lại không hỏi, sau khi không hỏi lại tiến hành lễ Pavāraā chung thì phạm tội dukkaṭa. ―(như trên)― Các vị ấy hỏi, sau khi hỏi rồi thay đi (quan đim), sau khi thay đi (quan điểm) lại tiến hành lễ Pavāraā riêng rẽ thì phạm tội dukkaṭa. ―(như trên)― Các vị ấy hỏi, sau khi hỏi rồi thay đi (quan đim), sau khi thay đi (quan điểm) rồi tiến hành lễ Pavāraā chung thì vô tội.

Này các tỳ khưu, trường hợp các tỳ khưu thường trú nhìn thấy các tỳ khưu vãng lai thuộc nhóm cộng trú khác. Các vị ấy nhận lầm thuộc cùng nhóm cộng trú, sau khi nhận lầm là thuộc cùng nhóm cộng trú rồi không hỏi, sau khi không hỏi rồi tiến hành lễ Pavāraā chung thì vô tội. ―(như trên)― Các vị ấy hỏi, sau khi hỏi vẫn không thay đi (quan đim), sau khi không thay đổi (quan điểm) lại tiến hành lễ Pavāraā chung thì phạm tội dukkaṭa. ―(như trên)― Các vị ấy hỏi, sau khi hỏi vẫn không thay đi (quan đim), sau khi không thay đi (quan điểm) rồi tiến hành lễ Pavāraā riêng rẽ thì vô tội.

Này các tỳ khưu, trường hợp các tỳ khưu thường trú nhìn thấy các tỳ khưu vãng lai thuộc cùng nhóm cộng trú. Các vị ấy nhận lầm thuộc nhóm cộng trú khác, sau khi nhận lầm thuộc nhóm cộng trú khác rồi không hỏi, sau khi không hỏi lại tiến hành lễ Pavāraā chung thì phạm tội dukkaṭa. ―(như trên)― Các vị ấy hỏi, sau khi hỏi rồi thay đi (quan đim), sau khi thay đi (quan điểm) lại tiến hành lễ Pavāraā riêng rẽ thì phạm tội dukkaṭa. ―(như trên)― Các vị ấy hỏi, sau khi hỏi rồi thay đi (quan đim), sau khi thay đi (quan điểm) rồi tiến hành lễ Pavāraā chung thì vô tội.

Này các tỳ khưu, vào ngày lPavāraā từ chỗ trú ngụ có tỳ khưu không nên đi đến chỗ trú ngụ không có tỳ khưu tr phi (đi cùng) với hội chúng, trừ phi có nguy hiểm.

Này các tỳ khưu, vào ngày lPavāraā từ chỗ trú ngụ có tỳ khưu không nên đi đến nơi không phải là chỗ trú ngụ không có tỳ khưu tr phi (đi cùng) với hội chúng, trừ phi có nguy hiểm.

Này các tỳ khưu, vào ngày lPavāraā từ chỗ trú ngụ có tỳ khưu không nên đi đến chỗ trú ngụ hoặc nơi không phải là chỗ trú ngụ không có tỳ khưu trừ phi (đi cùng) với hội chúng, trừ phi có nguy hiểm.

Này các tỳ khưu, vào ngày lPavāraā từ nơi không phải là chỗ trú ngụ có tỳ khưu không nên đi đến chỗ trú ngụ không có tỳ khưu tr phi (đi cùng) với hội chúng, trừ phi có nguy hiểm.

Này các tỳ khưu, vào ngày lễ Pavāraā từ nơi không phải là chỗ trú ngụ có tỳ khưu không nên đi đến nơi không phải là chỗ trú ngụ không có tỳ khưu tr phi (đi cùng) với hội chúng, trừ phi có nguy hiểm.

Này các tỳ khưu, vào ngày lPavāraā từ nơi không phải là chỗ trú ngụ có tỳ khưu không nên đi đến chỗ trú ngụ hoặc nơi không phải là chỗ trú ngụ không có tỳ khưu tr phi (đi cùng) với hội chúng, trừ phi có nguy hiểm.

Này các tỳ khưu, vào ngày lPavāraā từ chỗ trú ngụ hoặc nơi không phải là chỗ trú ngụ có tỳ khưu không nên đi đến chỗ trú ngụ không có tỳ khưu tr phi (đi cùng) với hội chúng, trừ phi có nguy hiểm.

Này các tỳ khưu, vào ngày lPavāraā từ chỗ trú ngụ hoặc nơi không phải là chỗ trú ngụ có tỳ khưu không nên đi đến nơi không phải là chỗ trú ngụ không có tỳ khưu tr phi (đi cùng) với hội chúng, trừ phi có nguy hiểm.

Này các tỳ khưu, vào ngày lPavāraā từ chỗ trú ngụ hoặc nơi không phải là chỗ trú ngụ có tỳ khưu không nên đi đến chỗ trú ngụ hoặc nơi không phải là chỗ trú ngụ không có tỳ khưu tr phi (đi cùng) với hội chúng, trừ phi có nguy hiểm.

Này các tỳ khưu, vào ngày lPavāraā từ chỗ trú ngụ có tỳ khưu không nên đi đến chỗ trú ngụ có tỳ khưu nhưng các t khưu  nơi ấy là thuộc nhóm cộng trú khác trừ phi (đi cùng) với hội chúng, trừ phi có nguy hiểm.

Này các tỳ khưu, vào ngày lPavāraā từ chỗ trú ngụ có tỳ khưu không nên đi đến nơi không phải là chỗ trú ngụ có tỳ khưu nhưng các t khưu  nơi ấy là thuộc nhóm cộng trú khác trừ phi (đi cùng) với hội chúng, trừ phi có nguy hiểm.

Này các tỳ khưu, vào ngày lPavāraṇā từ chỗ trú ngụ có tỳ khưu không nên đi đến chỗ trú ngụ hoặc nơi không phải là chỗ trú ngụ có tỳ khưu nhưng các t khưu  nơi ấy là thuộc nhóm cộng trú khác trừ phi (đi cùng) với hội chúng, trừ phi có nguy hiểm.

Này các tỳ khưu, vào ngày lPavāraā từ nơi không phải là chỗ trú ngụ có tỳ khưu không nên đi đến chỗ trú ngụ có tỳ khưu nhưng các t khưu  nơi ấy là thuộc nhóm cộng trú khác trừ phi (đi cùng) với hội chúng, trừ phi có nguy hiểm.

Này các tỳ khưu, vào ngày lPavāraā từ nơi không phải là chỗ trú ngụ có tỳ khưu không nên đi đến nơi không phải là chỗ trú ngụ có tỳ khưu nhưng các t khưu  nơi ấy là thuộc nhóm cộng trú khác trừ phi (đi cùng) với hội chúng, trừ phi có nguy hiểm.

Này các tỳ khưu, vào ngày lPavāraā từ nơi không phải là chỗ trú ngụ có tỳ khưu không nên đi đến chỗ trú ngụ hoặc nơi không phải là chỗ trú ngụ có tỳ khưu nhưng các t khưu  nơi ấy là thuộc nhóm cộng trú khác trừ phi (đi cùng) với hội chúng, trừ phi có nguy hiểm.

Này các tỳ khưu, vào ngày lPavāraā từ chỗ trú ngụ hoặc nơi không phải là chỗ trú ngụ có tỳ khưu không nên đi đến chỗ trú ngụ có tỳ khưu nhưng các t khưu  nơi ấy là thuộc nhóm cộng trú khác trừ phi (đi cùng) với hội chúng, trừ phi có nguy hiểm.

Này các tỳ khưu, vào ngày lPavāraā từ chỗ trú ngụ hoặc nơi không phải là chỗ trú ngụ có tỳ khưu không nên đi đến nơi không phải là chỗ trú ngụ có tỳ khưu nhưng các t khưu  nơi ấy là thuộc nhóm cộng trú khác trừ phi (đi cùng) với hội chúng, trừ phi có nguy hiểm.

Này các tỳ khưu, vào ngày lPavāraā từ chỗ trú ngụ hoặc nơi không phải là chỗ trú ngụ có tỳ khưu không nên đi đến chỗ trú ngụ hoặc nơi không phải là chỗ trú ngụ có tỳ khưu nhưng các t khưu  nơi ấy là thuộc nhóm cộng trú khác trừ phi (đi cùng) với hội chúng, trừ phi có nguy hiểm.

Này các tỳ khưu, vào ngày lPavāraā từ chỗ trú ngụ có tỳ khưu có th đi đến chỗ trú ngụ có tỳ khưu và các t khưu  nơi ấy thuộc cùng nhóm cộng trú, nếu biết rằng: “Ta có thể đi đến nội trong ngày nay.”

Này các tỳ khưu, vào ngày lPavāraā từ chỗ trú ngụ có tỳ khưu có th đi đến nơi không phải là chỗ trú ngụ có tỳ khưu ―(như trên)― chỗ trú ngụ hoặc nơi không phải là chỗ trú ngụ có tỳ khưu và các t khưu  nơi ấy thuộc cùng nhóm cộng trú, nếu biết rằng: “Ta có thể đi đến nội trong ngày nay.”

Này các tỳ khưu, vào ngày lPavāraā vị tỳ khưu t nơi không phải là chỗ trú ngụ có tỳ khưu có th đi đến chỗ trú ngụ có tỳ khưu ―(như trên)― nơi không phải là chỗ trú ngụ có tỳ khưu ―(như trên)― chỗ trú ngụ hoặc nơi không phải là chỗ trú ngụ có tỳ khưu và các tỳ khưu  nơi ấy thuộc cùng nhóm cộng trú, nếu biết rằng: “Ta có thể đi đến nội trong ngày nay.”

Này các tỳ khưu, vào ngày lPavāraā vị tỳ khưu từ chỗ trú ngụ hoặc nơi không phải là chỗ trú ngụ có tỳ khưu có th đi đến chỗ trú ngụ có tỳ khưu ―(như trên)― nơi không phải là chỗ trú ngụ có tỳ khưu ―(như trên)― chỗ trú ngụ hoặc nơi không phải là chỗ trú ngụ có tỳ khưu và các t khưu  nơi ấy thuộc cùng nhóm cộng trú, nếu biết rằng: “Ta có thể đi đến nội trong ngày nay.”

Này các tỳ khưu, không nên thỉnh cầu với hội chúng đã ngồi xuống có vị tỳ khưu ni; vị nào thỉnh cầu thì phạm tội dukkaṭa.

Này các tỳ khưu, không nên thỉnh cầu với hội chúng đã ngồi xuống có cô ni tu tập sự ―(như trên)― có vị sa di ―(như trên)― có vị sa di ni ―(như trên)― có ngưi đã từ bỏ điều học ―(như trên)― có vị đã phạm tội cực nặng; vị nào thỉnh cầu thì phạm tội dukkaṭa.

Không nên thỉnh cầu với hội chúng đã ngồi xuống có vị bị án treo trong việc không nhìn nhận tội; vị nào thỉnh cầu thì nên được hành xử theo pháp.

Không nên thỉnh cầu với hội chúng đã ngồi xuống có vị bị án treo trong việc không sửa chữa lỗi ―(như trên)― có vị bị án treo trong việc không chịu từ bỏ tà kiến ác; vị nào thỉnh cầu thì nên được hành xử theo pháp.

Này các tỳ khưu, không nên thỉnh cầu với hội chúng đã ngồi xuống có kẻ vô căn; vị nào thỉnh cầu thì phạm tội dukkaṭa.

Không nên thỉnh cầu với hội chúng đã ngồi xuống có kẻ trộm tướng mạo (tỳ khưu) ―(như trên)― có kẻ đã đi theo ngoi đo ―(như trên)― có loài thú ―(như trên)― có kẻ giết mẹ ―(như trên)― có kẻ giết cha ―(như trên)― có kẻ giết A-la-hán ―(như trên)― có kẻ làm nhơ t khưu ni ―(như trên)― có kẻ chia rẽ hội chúng ―(như trên)― có kẻ làm chảy máu (đức Phật) ―(như trên)― có kẻ lưng căn; vị nào thỉnh cầu thì phạm tội dukkaṭa.

Này các tỳ khưu, lPavāraā không nên tiến hành với việc trao ra sự trong sạch của vị hành parivāsa, trừ trường hợp tập thể không bị cách ly.[2]

Này các tỳ khưu, không nên tiến hành lễ Pavāraā không nhằm ngày Pavāraā trừ phi vào lúc hợp nhất hội chúng.

Dứt tụng phẩm thứ nhì.

--ooOoo--

Trong chương này có bn mươi sáu sự việc.

Tóm lưc chương này

(Các vị) đã sống qua mùa (an cư) mưa ở xứ Kosala đã đi diện kiến bậc Đo Sư, sự sống chung như loài thú một cách không thoải mái, về sự hài hòa với nhau.

Trong khi đang cầu thỉnh (ngồi yên) ở chỗ ngồi, và có hai (ngày lễ), hành sự, vị bị bệnh, các thân quyến, rồi đức vua, bọn cướp, lũ bất lương, các k đối nghịch tỳ khưu cũng ging y như thế.

Năm, bốn, ba, hai, một vị, bị phạm tội, có sự nghi ngờ, vị đã nhớ lại, tất cả hội chúng có sự nghi ngờ, nhiều hơn, tương đương, và ít hơn.

Các vị thưng trú, ngày mười bốn, đc điểm, các vị đồng cộng trú, cả hai, nên đi đến, không với vị ni ngồi, về việc bày tỏ sự tùy thuận, lễ Pavāraā.

đám lc lâm, (đêm) đã tàn, đám mây đen, các điều nguy hiểm, và sự thỉnh cầu, các vị không để cho thỉnh ý, trưc chúng ta, đã không bị đình chỉ, và của vị tỳ khưu.

Và do điều gì? và thế nào? do đã thấy, do đã nghe, do sự nghi ngờ, vị (nguyên cáo) kết tội, và vị bị kết tội, tội thullaccaya, sự việc, (gây ra) sự xung đột, lễ Pavāraā, và sự đồng thuận, không có quyền hành, (hội chúng) nên tiến hành lễ Pavāraā.

--ooOoo--

[2] Nghĩa là tập thể này không phải là các vị đang chịu hành phạt parivāsa. Chúng tôi chọn nghĩa như trên dựa vào lời giải thích của nhóm từ “vuṭṭhitāya parisāya = với tập thể đã bị cách ly” là “với việc ban cho sự thỏa thuận từ các vị (tỳ khưu) đang chịu hành phạt parivāsa” được tìm thấy ở bộ Bhikkhunīvibhaṅga - Phân Tích Giới Tỳ Khưu Ni. Từ avuṭṭhitāya còn có nghĩa là “chưa đng lên, chưa được thoát tội."



Phiên bản thư viện demo v4.5 [Tipiṭaka Tiếng Việt] Theravada