Lúc bấy giờ, đức Phật Thế Tôn ngự tại thành Sāvatthi, Jetavana, tu viện của ông Anāthapiṇḍika. Vào lúc bấy giờ, nhiều vị tỳ khưu là bn bè đng quan điểm, thân thiết, đã vào mùa (an cư) mưa tại trú xứ nọ ở trong xứ Kosala.

Khi ấy, các vị tỳ khưu y đã khởi ý điều này: “Chúng ta có sự hợp nhất, thân thiện, không cãi vã nhau, vậy bằng phương thức nào có thể sống mùa (an cư) mưa một cách thoải mái, và không bị khó nhọc vì đ ăn khất thực?”

Khi ấy, các vị tỳ khưu y đã khởi ý điều này: “Nếu chúng ta có thể không nói với nhau và cũng không chuyện trò, vị nào đi khất thực từ làng trở về trước tiên, vị ấy sắp xếp chỗ ngồi, chuẩn bị nước rửa chân, ghế kê chân, tấm chà chân, rửa chậu đng đồ thừa rồi đem lại, cung ứng nước uống nước rửa. Vị nào đi khất thực từ làng trở về sau cùng, nếu vật thực đưc ăn còn thừa lại, nếu muốn có thể ăn; nếu không muốn có thể đem quăng bỏ ở nơi không có cỏ xanh, hoặc đổ xuống ở nước không có sinh vật. Vị ấy xếp chỗ ngồi lại, dọn dẹp nước rửa chân, ghế kê chân, tấm chà chân, rửa chậu đng đồ thừa rồi cất đi, dọn dẹp nước uống nước rửa, và quét nhà ăn. Vị nào thấy lu nước uống, hoặc lu nước rửa, hoặc lu nước nhà vệ sinh hết nước, trống trơn, vị ấy có thể đem (nước) lại. Nếu vị ấy không làm nổi, có thể ra hiệu bằng tay mời vị thứ hai và có thể đem (nước) lại với dấu hiệu bằng tay, nhưng không vì lý do đó lại có thể phát ra lời nói. Như thế, chúng ta có sự hợp nhất, thân thiện, không cãi vã nhau có thể sống mùa (an cư) mưa một cách thoải mái, và không bị khó nhọc vì đ ăn khất thực.”

Sau đó, các vị tỳ khưu y đã không nói với nhau và cũng không chuyện trò. Vị nào đi khất thực từ làng trở về trước tiên, vị ấy sắp xếp chỗ ngồi, chuẩn bị nước rửa chân, ghế kê chân, tấm chà chân, rửa chậu đng đồ thừa rồi đem lại, cung ứng nước uống nước rửa. Vị nào đi khất thực từ làng trở về sau cùng, nếu vật thực đưc ăn còn thừa lại, nếu muốn thì vị ấy ăn; nếu không muốn thì đem quăng bỏ ở nơi không có cỏ xanh hoặc đổ xuống ở nước không có sinh vật. Vị ấy xếp chỗ ngồi lại, dọn dẹp nước rửa chân, ghế kê chân, tấm chà chân, rửa chậu đng đồ thừa rồi cất đi, dọn dẹp nước uống nước rửa, và quét nhà ăn. Vị nào thấy lu nước uống, hoặc lu nước rửa, hoặc lu nước nhà vệ sinh hết nước, trống trơn, vị ấy đem (nước) lại. Nếu không làm nổi, vị ấy ra hiệu bằng tay mời vị thứ hai và đem (nước) lại với dấu hiệu bằng tay, nhưng không vì lý do đó mà phát ra lời nói.

Điu này đã trở thành thông lệ của các tỳ khưu đã sống qua mùa (an cư) mưa là đi đến để diện kiến đức Thế Tôn. Khi ấy, các vị tỳ khưu y khi đã sống qua mùa (an cư) mưa với thời gian ba tháng đã thu xếp chỗ trú ngụ, cầm y bát, ra đi về phía thành Sāvatthi. Tuần tự, các vị đã đi đến Jetavana tu viện của ông Anāthapiṇḍika gặp đức Thế Tôn, sau khi đến đã đảnh lễ đức Thế Tôn rồi ngồi xuống ở một bên.

Điu này đã trở thành thông lệ của chư Phật Thế Tôn là niềm nở với các vị tỳ khưu đi đến. Khi ấy, đức Thế Tôn đã nói với các vị tỳ khưu y điều này: - “Này các tỳ khưu, sức khoẻ có khá không? Mọi việc có được tốt đp không? Các ngươi có sự hợp nhất, thân thiện, không cãi vã nhau có phải đã sống mùa (an cư) mưa một cách thoải mái, và không bị khó nhọc vì đ ăn khất thực không?”

- “Bạch Thế Tôn, sức khoẻ khá. Bạch Thế Tôn, mọi việc được tốt đẹp. Và bạch ngài, chúng con có sự hợp nhất, thân thiện, không cãi vã nhau đã sống mùa (an cư) mưa một cách thoải mái, và không bị khó nhọc vì đ ăn khất thực.”

Các đng Như Lai dầu biết vẫn hỏi, dầu biết các vị vẫn không hỏi, biết đúng thời các vị mới hỏi, biết đúng thời các vị vẫn không hỏi, có liên quan đến lợi ích các đng Như Lai mới hỏi và không có liên quan đến lợi ích thì không (hỏi), khi không có liên quan đến lợi ích các đng Như Lai có cách để cắt đứt vấn đề.

Chư Phật Thế Tôn hỏi các vị tỳ khưu với hai lý do: “Chúng ta sẽ thuyết giảng Giáo Pháp hoặc là chúng ta sẽ quy đnh điều học cho các đệ tử.”

Khi ấy, đức Thế Tôn đã nói với các vị tỳ khưu y điều này: - “Này các tỳ khưu, các ngươi có sự hợp nhất, thân thiện, không cãi vã nhau đã sống mùa (an cư) mưa một cách thoải mái, và không bị khó nhọc vì đ ăn khất thực là như thế nào?”

- “Bạch ngài, trường hợp chúng con gồm nhiều vị tỳ khưu là bn bè đng quan điểm, thân thiết, đã vào mùa (an cư) mưa tại trú xứ nọ ở trong xứ Kosala. Bạch ngài, chúng con đây đã khởi ý điều này: ‘Chúng ta có sự hợp nhất, thân thiện, không cãi vã nhau, vậy bằng phương thức nào có thể sống mùa (an cư) mưa một cách thoải mái, và không bị khó nhọc vì đ ăn khất thực?’

Bạch ngài, chúng con đây đã khởi ý điều này: ‘Nếu chúng ta có thể không nói với nhau và cũng không chuyện trò, vị nào đi khất thực từ làng trở về trước tiên vị ấy sắp xếp chỗ ngồi, chuẩn bị nước rửa chân, ghế kê chân, tấm chà chân, rửa chậu đng đồ thừa rồi đem lại, cung ứng nước uống nước rửa. Vị nào đi khất thực từ làng trở về sau cùng, nếu vật thực đưc ăn còn thừa lại, nếu muốn có thể ăn; nếu không muốn có thể đem quăng bỏ ở nơi không có cỏ xanh hoặc đổ xuống ở nước không có sinh vật. Vị ấy xếp chỗ ngồi lại, dọn dẹp nước rửa chân, ghế kê chân, tấm chà chân, rửa chậu đng đồ thừa rồi cất đi, dọn dẹp nước uống nước rửa, và quét nhà ăn. Vị nào thấy lu nước uống, hoặc lu nước rửa, hoặc lu nước nhà vệ sinh hết nước, trống trơn, vị ấy có thể đem (nước) lại. Nếu vị ấy không làm nổi, có thể ra hiệu bằng tay mời vị thứ hai và có thể đem (nước) lại với dấu hiệu bằng tay, nhưng không vì lý do đó lại có thể phát ra lời nói. Như thế, chúng ta có sự hợp nhất, thân thiện, không cãi vã nhau có thể sống mùa (an cư) mưa một cách thoải mái, và không bị khó nhọc vì đ ăn khất thực.’

Bạch ngài, sau đó chúng con đã không nói với nhau và cũng không chuyện trò. Vị nào đi khất thực từ làng trở về trước tiên vị ấy sắp xếp chỗ ngồi, chuẩn bị nước rửa chân, ghế kê chân, tấm chà chân, rửa chậu đng đồ thừa rồi đem lại, cung ứng nước uống nước rửa. Vị nào đi khất thực từ làng trở về sau cùng, nếu vật thực đưc ăn còn thừa lại, nếu muốn thì vị ấy ăn; nếu không muốn có thể đem quăng bỏ ở nơi không có cỏ xanh hoặc đổ xuống ở nước không có sinh vật. Vị ấy xếp chỗ ngồi lại, dọn dẹp nước rửa chân, ghế kê chân, tấm chà chân, rửa chậu đng đồ thừa rồi cất đi, dọn dẹp nước uống nước rửa, và quét nhà ăn. Vị nào thấy lu nước uống, hoặc lu nước rửa, hoặc lu nước nhà vệ sinh hết nước, trống trơn, vị ấy đem (nước) lại. Nếu không làm nổi, vị ấy ra hiệu bằng tay mời vị thứ hai và đem (nước) lại với dấu hiệu bằng tay, nhưng không vì lý do đó mà phát ra lời nói. Bạch ngài, chúng con có sự hợp nhất, thân thiện, không cãi vã nhau đã sống mùa (an cư) mưa một cách thoải mái, và không bị khó nhọc vì đ ăn khất thực là như thế.”

Khi ấy, đức Thế Tôn đã bảo các tỳ khưu rằng: - “Này các tỳ khưu, thật ra những kẻ rồ dại này trong khi đã sống một cách không thoải mái lại bảo rằng: ‘Chúng con đã sống một cách thoải mái.’ Này các tỳ khưu, thật ra những kẻ rồ dại này trong khi đã sống với lối sống chung của loài thú lại bảo rằng: ‘Chúng con đã sống một cách thoải mái.’ Này các tỳ khưu, thật ra những kẻ rồ dại này trong khi đã sống với lối sống chung của loài cừu lại bảo rằng: ‘Chúng con đã sống một cách thoải mái.’ Này các tỳ khưu, thật ra những kẻ rồ dại này trong khi đã sống với lối cộng trú của những kẻ lười biếng lại bảo rằng: ‘Chúng con đã sống một cách thoải mái.’ Này các tỳ khưu, vì sao những kẻ rồ dại này lại thọ trì lối thực hành của ngoại đạo là sự hành trì như kẻ câm. Này các tỳ khưu, sự việc này không đem lại niềm tin cho những kẻ chưa có đc tin, ―(như trên)

 Sau khi khiển trách, ngài đã nói Pháp thoại rồi bảo các tỳ khưu rằng: - “Này các tỳ khưu, không nên thọ trì lối thực hành của ngoại đạo là sự hành trì như kẻ câm; vị nào thọ trì thì phạm tội dukkaṭa. Này các tỳ khưu, đối với các tỳ khưu đã sống qua mùa (an cư) mưa ta cho phép thỉnh cầu dựa trên ba tình huống là do đã được thấy, hoặc do đã được nghe, hoặc do sự nghi ngờ. Việc ấy sẽ giúp cho các ngươi có được sự hài hòa với nhau, có được sự thoát ra khỏi tội, và có được sự tôn vinh Luật. Và này các tỳ khưu, nên thỉnh cầu như vầy: Hội chúng cần được thông báo bởi vị tỳ khưu có kinh nghim, đ năng lực:

“Bạch các ngài, xin hội chúng hãy lắng nghe tôi. Hôm nay là ngày lễ Pavāraā.[1] Nếu là thời điểm thích hợp cho hội chúng, hội chúng nên tiến hành lễ Pavāraā.”

Vị tỳ khưu trưởng lão nên đp thượng y một bên vai, ngồi chồm hổm, chắp tay lên, và nên nói như vầy: “Này các sư đệ, tôi xin thỉnh cầu hội chúng do đã được thấy, hoặc do đã được nghe, hoặc do sự nghi ngờ, vì lòng thương xót xin các đi đức hãy nói với tôi. Trong khi nhận ra tôi sẽ sửa chữa. Này các sư đệ, lần thứ nhì tôi xin thỉnh cầu hội chúng do đã được thấy, hoặc do đã được nghe, hoặc do sự nghi ngờ, vì lòng thương xót xin các đi đức hãy nói với tôi. Trong khi nhận ra tôi sẽ sửa chữa. Này các sư đệ, lần thứ ba tôi xin thỉnh cầu hội chúng do đã được thấy, hoặc do đã được nghe, hoặc do sự nghi ngờ, vì lòng thương xót xin các đi đức hãy nói với tôi. Trong khi nhận ra tôi sẽ sửa chữa.”

Vị tỳ khưu mi tu nên đp thượng y một bên vai, ngồi chồm hổm, chắp tay lên, và nên nói như vầy: “Bạch các ngài, tôi xin thỉnh cầu hội chúng do đã được thấy, hoặc do đã được nghe, hoặc do sự nghi ngờ, vì lòng thương xót xin các đi đức hãy nói với tôi. Trong khi nhận ra tôi sẽ sửa chữa. Bạch các ngài, lần thứ nhì tôi xin thỉnh cầu hội chúng ―(như trên)― Bạch các ngài, lần thứ ba tôi xin thỉnh cầu hội chúng do đã được thấy, hoặc do đã được nghe, hoặc do sự nghi ngờ, vì lòng thương xót xin các đi đức hãy nói với tôi. Trong khi nhận ra tôi sẽ sửa chữa.”

Vào lúc bấy giờ, các tỳ khưu nhóm Lc Sư ngồi yên trên chỗ ngồi trong lúc các tỳ khưu trưởng lão đang ngồi chồm hổm thỉnh cầu. Các tỳ khưu nào ít ham muốn, các vị ấy phàn nàn, phê phán, chê bai rằng: - “Vì sao các tỳ khưu nhóm Lc Sư lại ngồi yên trên chỗ ngồi trong lúc các tỳ khưu trưởng lão đang ngồi chồm hổm thỉnh cầu?”

Sau đó, các vị tỳ khưu y đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn. - “Này các tỳ khưu, nghe nói các t khưu nhóm Lc Sư ngồi yên trên chỗ ngồi trong lúc các tỳ khưu trưởng lão ngồi đang chồm hổm thỉnh cầu, có đúng không vậy?” - “Bạch Thế Tôn, đúng vậy.”

Đức Phật Thế Tôn đã khiển trách rằng: - “Này các tỳ khưu, vì sao những kẻ rồ dại này lại ngồi yên trên chỗ ngồi trong lúc các tỳ khưu trưởng lão đang ngồi chồm hổm thỉnh cầu.

Này các tỳ khưu, sự việc này không đem lại niềm tin cho những kẻ chưa có đc tin, ―(như trên)― Sau khi khin trách, ngài đã nói Pháp thoại rồi bảo các tỳ khưu rằng: - “Này các tỳ khưu, không nên ngồi yên trên chỗ ngồi trong lúc các tỳ khưu trưởng lão đang ngồi chồm hổm thỉnh cầu; vị nào ngồi yên thì phạm tội dukkaṭa. Này các tỳ khưu, ta cho phép toàn bộ tất cả ngồi chồm hổm để thỉnh cầu.”

Vào lúc bấy giờ, có vị trưởng lão nọ già yếu ngồi chồm hổm (nghĩ rằng): “Đến khi tất cả thỉnh cầu xong,” trong lúc chờ đợi bị choáng váng rồi té xuống.

Các vị đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn. - “Này các tỳ khưu, ta cho phép ngồi chồm hổm trong khoảng thời gian chờ đợi cho đến khi thỉnh cầu, sau khi thỉnh cầu thì được ngồi xuống trên chỗ ngồi.”

Khi ấy, các vị tỳ khưu đã khởi ý điều này: “Có bao nhiêu lễ Pavāraā?” Các vị đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn. “Này các tỳ khưu, đây là hai lPavāraā: Lễ ngày mười bốn và lễ ngày mưi lăm. Này các t khưu, đây là hai lPavāraā.”

Khi ấy, các vị tỳ khưu đã khởi ý điều này: “Có bao nhiêu hành sự Pavāraā?” Các vị đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn. - “Này các tỳ khưu, đây là bốn hành sự Pavāraā: Hành sự Pavāraā sai Pháp theo phe nhóm, hành sự Pavāraā sai Pháp có sự hợp nhất, hành sự Pavāraā đúng Pháp theo phe nhóm, hành sPavāraā đúng Pháp có sự hợp nhất.

Này các tỳ khưu, trường hợp này tức là hành sự Pavāraā sai Pháp theo phe nhóm, này các tỳ khưu, không nên thực hiện hành sự Pavāraā có hình thức như thế và hành sựPavāraā có hình thức như thế không được ta cho phép.

Này các tỳ khưu, trường hợp này tức là hành sự Pavāraā sai Pháp có sự hợp nhất, này các tỳ khưu, không nên thực hiện hành sự Pavāraā có hình thức như thế và hành sựPavāraā có hình thức như thế không được ta cho phép.

Này các tỳ khưu, trường hợp này tức là hành sự Pavāraā đúng Pháp theo phe nhóm, này các t khưu, không nên thực hiện hành sự Pavāraā có hình thức như thế và hành sựPavāraā có hình thức như thế không được ta cho phép.

Này các tỳ khưu, trường hợp này tức là hành sự Pavāraā đúng Pháp có sự hợp nhất, này các tỳ khưu, nên thực hiện hành sự Pavāraā có hình thức như thế và hành sự Pavāraācó hình thức như thế được ta cho phép.

Này các tỳ khưu, do đó  đây chúng ta sẽ thực hiện hành sự Pavāraā có hình thức như thế tức là ‘Đúng Pháp có sự hợp nhất.’ Này các tỳ khưu, các ngươi nên học tập theo đúng như thế.”

Sau đó, đức Thế Tôn đã bảo các tỳ khưu rằng: - “Này các tỳ khưu, hãy tụ hội lại, hội chúng sẽ thực hiện lễ Pavāraā.”

Khi đưc nói như thế, có vị tỳ khưu n đã nói với đức Thế Tôn điều này: - “Bạch ngài, có vị tỳ khưu bị bệnh. Vị ấy không đến.” - “Này các tỳ khưu, ta cho phép vị tỳ khưu bị bệnh được trao ra lời thỉnh cầu. Và này các tỳ khưu, nên trao ra như vầy: Vị tỳ khưu bị bệnh nên đi đến gặp một vị tỳ khưu, nên đp thượng y một bên vai, nên ngồi chồm hổm, chắp tay lên, và nên nói như vầy: “Tôi xin trao ra lời thỉnh cầu. Hãy chuyển đạt lời thỉnh cầu của tôi. Hãy thông báo lời thỉnh cầu của tôi. Hãy thỉnh cầu vì sự lợi ích của tôi.”

 (Nếu) vị ấy thể hiện bằng thân, thể hiện bằng lời nói, thể hiện bằng thân và lời nói, thì lời thỉnh cầu đã được trao ra. (Nếu) vị ấy không thể hiện bằng thân, không thể hiện bằng lời nói, không thể hiện bằng thân và lời nói, thì lời thỉnh cầu đã không được trao ra. Nếu việc ấy đt đưc như thế, việc ấy như vậy là tốt đẹp. Này các tỳ khưu, nếu không đt đưc (như thế) thì nên dùng cái giường hoặc cái ghế khiêng vị tỳ khưu bị bệnh ấy đến giữa hội chúng rồi nên thực hiện lễ Pavāraā. Này các tỳ khưu, nếu các vị tỳ khưu chăm sóc bệnh khởi ý như vầy: “Nếu chúng ta di chuyển vị bị bệnh dời khỏi vị trí thì bệnh sẽ trầm trọng hơn hoặc sẽ gây tử vong,” này các tỳ khưu, không nên di chuyển vị bị bệnh khỏi vị trí. Hội chúng nên đi đến và thực hiện lễ Pavāraā ở nơi y. Nhưng không nên thực hiện lễ Pavāraā bởi hội chúng theo phe nhóm; vị nào thực hiện thì phạm tội dukkaṭa.

Này các tỳ khưu, khi lời thỉnh cầu đã được trao ra, nếu vị chuyển đạt lời thỉnh cầu từ chính chỗ ấy ra đi (đến nơi khác) thì lời thỉnh cầu nên đưc trao ra đến vị khác. Này các tỳ khưu, khi lời thỉnh cầu đã được trao ra, nếu vị chuyển đạt lời thỉnh cầu ngay tại chỗ ấy hoàn tục, ... từ trần, ... được biết là vị (xuống lại) sa di, ... được biết là ngưi đã từ bỏ điều học, ... được biết là vị phạm tội cực nặng, ... được biết là vị bị điên, ... được biết là bị loạn trí, ... được biết là bị thọ khổ hành hạ, ... được biết là vị bị án treo trong việc không nhìn nhận tội, ... được biết là vị bị án treo trong việc không sửa chữa lỗi, ... được biết là vị bị án treo trong việc không chịu từ bỏ tà kiến ác, ... được biết là kẻ vô căn, ... được biết là kẻ trộm tướng mạo (tỳ khưu), ... được biết là kẻ đã chuyển sang ngoại đo, ... được biết là loài thú, ... được biết là kẻ giết mẹ, ... được biết là kẻ giết cha, ... được biết là kẻ giết A-la-hán, ... được biết là kẻ làm nhơ t khưu ni, ... được biết là kẻ chia rẽ hội chúng, ... được biết là kẻ làm chảy máu (đức Phật), ... được biết là kẻ lưng căn thì lời thỉnh cầu nên đưc trao ra đến vị khác.

Này các tỳ khưu, khi lời thỉnh cầu đã được trao ra, nếu vị chuyển đạt lời thỉnh cầu ở khoảng giữa đường lại ra đi (đến nơi khác) thì lời thỉnh cầu vẫn chưa được chuyển đạt. Này các tỳ khưu, khi lời thỉnh cầu đã được trao ra, nếu vị chuyển đạt lời thỉnh cầu ở khoảng giữa đường lại hoàn tục, ... từ trần, ... được biết là vị (xuống lại) sa di, ... được biết là ngưi đã từ bỏ điều học, ... được biết là vị phạm tội cực nặng, ... được biết là vị bị điên, ... được biết là bị loạn trí, ... được biết là bị thọ khổ hành hạ, ... được biết là vị bị án treo trong việc không nhìn nhận tội, ... được biết là vị bị án treo trong việc không sửa chữa lỗi, ... được biết là vị bị án treo trong việc không chịu từ bỏ tà kiến ác, ... được biết là kẻ vô căn, ... được biết là kẻ trộm tướng mạo (tỳ khưu), ... được biết là kẻ đã chuyển sang ngoại đo, ... được biết là loài thú, ... được biết là kẻ giết mẹ, ... được biết là kẻ giết cha, ... được biết là kẻ giết A-la-hán, ... được biết là kẻ làm nhơ t khưu ni, ... được biết là kẻ chia rẽ hội chúng, ... được biết là kẻ làm chảy máu (đức Phật), ... được biết là kẻ lưng căn thì lời thỉnh cầu vẫn chưa được chuyển đạt.

Này các tỳ khưu, khi lời thỉnh cầu đã được trao ra, nếu vị chuyển đạt lời thỉnh cầu đã đến được hội chúng rồi ra đi (đến nơi khác) thì lời thỉnh cầu đã được chuyển đạt. Này các tỳ khưu, khi lời thỉnh cầu đã được trao ra, nếu vị chuyển đạt lời thỉnh cầu đã đến được hội chúng rồi hoàn tục, ... từ trần, ... được biết là vị (xuống lại) sa di, ... được biết là ngưi đã từ bỏ điều học, ... được biết là vị phạm tội cực nặng, ... được biết là vị bị điên, ... được biết là bị loạn trí, ... được biết là bị thọ khổ hành hạ, ... được biết là vị bị án treo trong việc không nhìn nhận tội, ... được biết là vị bị án treo trong việc không sửa chữa lỗi, ... được biết là vị bị án treo trong việc không chịu từ bỏ tà kiến ác, ... được biết là kẻ vô căn, ... được biết là kẻ trộm tướng mạo (tỳ khưu), ... được biết là kẻ đã chuyển sang ngoại đo, ... được biết là loài thú, ... được biết là kẻ giết mẹ, ... được biết là kẻ giết cha, ... được biết là kẻ giết A-la-hán, ... được biết là kẻ làm nhơ t khưu ni, ... được biết là kẻ chia rẽ hội chúng, ... được biết là kẻ làm chảy máu (đức Phật), ... được biết là kẻ lưng căn thì lời thỉnh cầu đã được chuyển đạt.

Này các tỳ khưu, khi lời thỉnh cầu đã được trao ra, nếu vị chuyển đạt lời thỉnh cầu đã đến được hội chúng rồi ngủ quên nên không thông báo thì lời thỉnh cầu đã được chuyển đạt. Vị chuyển đạt lời thỉnh cầu không bị phạm tội. Này các tỳ khưu, khi lời thỉnh cầu đã được trao ra, nếu vị chuyển đạt lời thỉnh cầu đã đến được hội chúng rồi lơ đnh ―(như trên)― rồi nhập định nên không thông báo thì lời thỉnh cầu đã được chuyển đạt. Vị chuyển đạt lời thỉnh cầu không bị phạm tội.

Này các tỳ khưu, khi lời thỉnh cầu đã được trao ra, nếu vị chuyển đạt lời thỉnh cầu đã đến được hội chúng rồi cố ý không thông báo thì lời thỉnh cầu đã được chuyển đạt và vị chuyển đạt lời thỉnh cầu bị phạm tội dukkaṭa. Này các tỳ khưu, ta cho phép vào ngày lễ Pavāraā vị trao ra lời thỉnh cầu (đồng thời) trao ra sự tùy thuận (phòng khi) hội chúng có hành sự cần được thực hiện.”

Vào lúc bấy giờ, vào ngày lễ Pavāraā các thân quyến đã nắm giữ lại vị tỳ khưu nọ. Các vị đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn. - “Này các tỳ khưu, trường hợp vào ngày lễ Pavāraā các thân quyến nắm giữ vị tỳ khưu lại. Các thân quyến ấy nên được các tỳ khưu nói như vầy: “Này các ngài, các ngài hãy trả tự do cho vị tỳ khưu này trong chc lát đến khi nào vị tỳ khưu này thực hiện lễ Pavāraṇā xong.” Nếu việc ấy đt đưc như thế, việc ấy như vậy là tốt đẹp. Nếu không đt đưc (như thế), các thân quyến ấy nên được các tỳ khưu nói như vầy: “Này các ngài, các ngài hãy tránh sang một bên trong chốc lát đến khi nào vị tỳ khưu này trao ra lời thỉnh cầu xong.” Nếu việc ấy đt đưc như thế, việc ấy như vậy là tốt đẹp. Nếu không đt đưc (như thế), các thân quyến ấy nên được các tỳ khưu nói như vầy: “Này các ngài, các ngài hãy dẫn vị tỳ khưu này ra khỏi ranh giới trong chốc lát đến khi nào hội chúng thực hiện lễ Pavāraā xong.” Nếu việc ấy đt đưc như thế, việc ấy như vậy là tốt đẹp. Nếu không đt đưc (như thế), vẫn không nên thực hiện lễ Pavāraā bởi hội chúng theo phe nhóm; vị nào thực hiện thì phạm tội dukkaṭa.

Này các tỳ khưu, trường hợp vào ngày lễ Pavāraā các đức vua nắm giữ vị tỳ khưu lại. ... các kẻ trộm cướp nắm giữ ... những kẻ bất lương nắm giữ ... những kẻ đối nghịch tỳ khưu nắm giữ vị tỳ khưu lại. Những kẻ đối nghịch tỳ khưu y nên được các tỳ khưu nói như vầy: “Này các ngài, các ngài hãy trả tự do cho vị tỳ khưu này trong chc lát đến khi nào vị tỳ khưu này thực hiện lễ Pavāraā xong.” Nếu việc ấy đt đưc như thế, việc ấy như vậy là tốt đẹp. Nếu không đt đưc (như thế), những kẻ đối nghịch tỳ khưu y nên được các tỳ khưu nói như vầy: “Này các ngài, các ngài hãy tránh sang một bên trong chốc lát đến khi nào vị tỳ khưu này trao ra lời thỉnh cầu xong.” Nếu việc ấy đt đưc như thế, việc ấy như vậy là tốt đẹp. Nếu không đt đưc (như thế), những kẻ đối nghịch tỳ khưu y nên được các tỳ khưu nói như vy: “Này các đạo hữu, các người hãy dẫn vị tỳ khưu này ra khỏi ranh giới trong chốc lát đến khi nào hội chúng thực hiện lễ Pavāraā xong.” Nếu việc ấy đt đưc như thế, việc ấy như vậy là tốt đẹp. Nếu không thể đt đưc (như thế), vẫn không nên thỉnh cầu bởi hội chúng theo phe nhóm; nếu vị nào thỉnh cầu thì phạm tội dukkaṭa.”

Vào lúc bấy giờ, tại trú xứ nọ vào ngày lễ Pavāraā có năm vị tỳ khưu cư ngụ. Khi ấy, các vị tỳ khưu y đã khởi ý điu này: “Đức Thế Tôn đã quy định rằng: ‘Hội chúng nên tiến hành lễ Pavāraā’ và chúng ta là năm người, vậy chúng ta nên thực hiện lễ Pavāraā như thế nào?” Các vị đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn. - “Này các tỳ khưu, ta cho phép thỉnh cầu hội chúng đối với năm vị.”

Vào lúc bấy giờ, tại trú xứ nọ vào ngày lễ Pavāraā có bốn vị tỳ khưu cư ngụ. Khi ấy, các vị tỳ khưu y đã khởi ý điu này: “Đức Thế Tôn đã cho phép thỉnh cầu hội chúng đối với năm vị và chúng ta là bốn người, vậy chúng ta nên thực hiện lễ Pavāraā như thế nào?” Các vị đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn. - “Này các tỳ khưu, ta cho phép thỉnh cầu lẫn nhau đối với bốn vị. Và này các tỳ khưu, nên thỉnh cầu như vầy: Các vị tỳ khưu y nên được thông báo bởi vị tỳ khưu có kinh nghim, đ năng lực:

“Xin các đi đức hãy lắng nghe tôi, hôm nay là ngày lễ Pavāraā. Nếu là thời điểm thích hợp cho các đi đức, chúng ta nên thỉnh cầu lẫn nhau.” Vị tỳ khưu trưởng lão nên đp thượng y một bên vai, ngồi chồm hổm, chắp tay lên, và nên nói với các vị tỳ khưu y như vy: “Này các sư đệ, tôi xin thỉnh cầu các đi đức do đã được thấy, hoặc do đã được nghe, hoặc do sự nghi ngờ, vì lòng thương xót xin các đi đức hãy nói với tôi. Trong khi nhận ra tôi sẽ sửa chữa. Này các sư đệ, lần thứ nhì tôi xin thỉnh cầu các đi đc ―(như trên)― Này các sư đệ, lần thứ ba tôi xin thỉnh cầu các đi đc do đã được thấy, hoặc do đã được nghe, hoặc do sự nghi ngờ, vì lòng thương xót xin các đi đức hãy nói với tôi. Trong khi nhận ra tôi sẽ sửa chữa.”

Vị tỳ khưu mi tu nên đp thượng y một bên vai, ngồi chồm hổm, chắp tay lên, và nên nói với vị các tỳ khưu y như vầy: “Bạch các ngài, tôi xin thỉnh cầu các đi đc do đã được thấy, hoặc do đã được nghe, hoặc do sự nghi ngờ, vì lòng thương xót xin các đi đức hãy nói với tôi. Trong khi nhận ra tôi sẽ sửa chữa. Bạch các ngài, lần thứ nhì tôi xin thỉnh cầu các đi đc ―(như trên)― Bạch các ngài, lần thứ ba tôi xin thỉnh cầu các đi đc do đã được thấy, hoặc do đã được nghe, hoặc do sự nghi ngờ, vì lòng thương xót xin các đi đức hãy nói với tôi. Trong khi nhận ra tôi sẽ sửa chữa.”

Vào lúc bấy giờ, tại trú xứ nọ vào ngày lễ Pavāraā có ba vị tỳ khưu cư ngụ. Khi ấy, các vị tỳ khưu y đã khởi ý điu này: “Đức Thế Tôn đã cho phép thỉnh cầu hội chúng đối với năm vị, thỉnh cầu lẫn nhau đối với bốn vị và chúng ta là ba người, vậy chúng ta nên thực hiện lễ Pavāraā như thế nào?” Các vị đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn. - “Này các tỳ khưu, ta cho phép thỉnh cầu lẫn nhau đối với ba vị. Và này các tỳ khưu, nên thỉnh cầu như vầy: Các vị tỳ khưu ấy cần được thông báo bởi vị tỳ khưu có kinh nghim, đ năng lực:

Xin các đi đức hãy lắng nghe tôi, hôm nay là ngày lễ Pavāraā vào ngày mưi lăm. Nếu là thời điểm thích hợp cho các đi đức, chúng ta nên thỉnh cầu lẫn nhau.” Vị tỳ khưu trưởng lão nên đp thượng y một bên vai, ngồi chồm hổm, chắp tay lên, và nên nói với vị các tỳ khưu y như vy: “Này các sư đệ, tôi xin thỉnh cầu các đi đc do đã được thấy, hoặc do đã được nghe, hoặc do sự nghi ngờ, vì lòng thương xót xin các đi đức hãy nói với tôi. Trong khi nhận ra tôi sẽ sửa chữa. Này các sư đệ, lần thứ nhì tôi xin thỉnh cầu các đi đc ―(như trên)― Này các sư đệ, lần thứ ba tôi xin thỉnh cầu các đi đc do đã được thấy, hoặc do đã được nghe, hoặc do sự nghi ngờ, vì lòng thương xót xin các đi đức hãy nói với tôi. Trong khi nhận ra tôi sẽ sửa chữa.”

Vị tỳ khưu mới tu nên đp thượng y một bên vai, ngồi chồm hổm, chắp tay lên, và nên nói với các vị tỳ khưu y như vầy: “Bạch các ngài, tôi xin thỉnh cầu các đi đc do đã được thấy, hoặc do đã được nghe, hoặc do sự nghi ngờ, vì lòng thương xót xin các đi đức hãy nói với tôi. Trong khi nhận ra tôi sẽ sửa chữa. Bạch các ngài, lần thứ nhì tôi xin thỉnh cầu các đi đc ―(như trên)― Bạch các ngài, lần thứ ba tôi xin thỉnh cầu các đi đc do đã được thấy, hoặc do đã được nghe, hoặc do sự nghi ngờ, vì lòng thương xót xin các đi đức hãy nói với tôi. Trong khi nhận ra tôi sẽ sửa chữa.”

Vào lúc bấy giờ, tại trú xứ nọ vào ngày lễ Pavāraā có hai vị tỳ khưu cư ngụ. Khi ấy, các vị tỳ khưu y đã khởi ý điu này: “Đức Thế Tôn đã cho phép thỉnh cầu hội chúng đối với năm vị, thỉnh cầu lẫn nhau đối với bốn vị,thỉnh cầu lẫn nhau đối với ba vị và chúng ta là hai người, vậy chúng ta nên thực hiện lễ Pavāraā như thế nào?” Các vị đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn. - “Này các tỳ khưu, ta cho phép thỉnh cầu lẫn nhau đối với hai vị. Và này các tỳ khưu, nên thỉnh cầu như vầy: Vị tỳ khưu trưởng lão nên đp thượng y một bên vai, ngồi chồm hổm, chắp tay lên, và nên nói với vị tỳ khưu mi tu như vy: “Này sư đệ, tôi xin thỉnh cầu đi đc do đã được thấy, hoặc do đã được nghe, hoặc do sự nghi ngờ, vì lòng thương xót xin đi đức hãy nói với tôi. Trong khi nhận ra tôi sẽ sửa chữa. Này sư đệ, lần thứ nhì tôi xin thỉnh cầu đi đc do đã được thấy, hoặc do đã được nghe, hoặc do sự nghi ngờ, vì lòng thương xót xin đi đức hãy nói với tôi. Trong khi nhận ra tôi sẽ sửa chữa. Này sư đệ, lần thứ ba tôi xin thỉnh cầu đi đc do đã được thấy, hoặc do đã được nghe, hoặc do sự nghi ngờ, vì lòng thương xót xin đi đức hãy nói với tôi. Trong khi nhận ra tôi sẽ sửa chữa.”

Vị tỳ khưu mi tu nên đp thượng y một bên vai, ngồi chồm hổm, chắp tay lên, và nên nói với vị tỳ khưu trưởng lão như vầy: “Bạch ngài, tôi xin thỉnh cầu đi đc do đã được thấy, hoặc do đã được nghe, hoặc do sự nghi ngờ, vì lòng thương xót xin đi đức hãy nói với tôi. Trong khi nhận ra tôi sẽ sửa chữa. Bạch ngài, lần thứ nhì tôi xin thỉnh cầu đi đc do đã được thấy, hoặc do đã được nghe, hoặc do sự nghi ngờ, vì lòng thương xót xin đi đức hãy nói với tôi. Trong khi nhận ra tôi sẽ sửa chữa. Bạch ngài, lần thứ ba tôi xin thỉnh cầu đi đc do đã được thấy, hoặc do đã được nghe, hoặc do sự nghi ngờ, vì lòng thương xót xin đi đức hãy nói với tôi. Trong khi nhận ra tôi sẽ sửa chữa.”

Vào lúc bấy giờ, tại trú xứ nọ vào ngày lễ Pavāraā có một vị tỳ khưu cư ngụ. Khi ấy, vị tỳ khưu y đã khởi ý điu này: “Đức Thế Tôn đã cho phép thỉnh cầu hội chúng đối với năm vị, thỉnh cầu lẫn nhau đối với bốn vị, thỉnh cầu lẫn nhau đối với ba vị, thỉnh cầu lẫn nhau đối với hai vị và ta chỉ có một mình, vậy ta nên thực hiện lễ Pavāraā như thế nào?” Các vị đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn. - “Này các tỳ khưu, trường hợp tại trú xứ nọ vào ngày lễ Pavāraā có một vị tỳ khưu cư ngụ. Này các tỳ khưu, chỗ nào các vị tỳ khưu thường quay trở về là ở giảng đường, hoặc ở mái che, hoặc ở gốc cây, vị tỳ khưu ấy nên quét khu vực ấy, nên đem li nước uống nước rửa, nên sắp đặt chỗ ngồi, nên thắp sáng đèn, rồi nên ngồi xuống. Nếu có các tỳ khưu khác đi đến thì nên thực hiện lễ Pavāraā với các vị ấy; nếu không có ai đi đến thì nên chú nguyện rằng: ‘Hôm nay là lễ Pavāraā của tôi.’ Nếu không chú nguyện thì phạm tội dukkaṭa.

Này các tỳ khưu, trường hợp ở nơi có năm vị tỳ khưu cư ngụ, không nên chuyển đạt lời thỉnh cầu của một vị rồi thỉnh cầu hội chúng bởi bốn vị. Nếu các vị thỉnh cầu thì phạm tộidukkaṭa. Này các tỳ khưu, trường hợp ở nơi có bốn vị tỳ khưu cư ngụ, không nên chuyển đạt lời thỉnh cầu của một vị rồi thỉnh cầu lẫn nhau bởi ba vị. Nếu các vị thỉnh cầu thì phạm tộidukkaṭa. Này các tỳ khưu, trường hợp ở nơi có ba vị tỳ khưu cư ngụ, không nên chuyển đạt lời thỉnh cầu của một vị rồi thỉnh cầu lẫn nhau bởi hai vị. Nếu các vị thỉnh cầu thì phạm tộidukkaṭa. Này các tỳ khưu, trường hợp ở nơi có hai vị tỳ khưu cư ngụ, không nên chuyển đạt lời thỉnh cầu của một vị rồi chú nguyện bởi một vị. Nếu chú nguyện thì phạm tội dukkaṭa.”

Vào lúc bấy giờ, có vị tỳ khưu nọ bị phạm tội vào ngày lễ Pavāraā. Khi ấy, vị tỳ khưu y đã khởi ý điu này: “Đức Thế Tôn đã quy định rằng: ‘Vị bị phạm tội không nên tiến hành lễ Pavāraā’ và ta thì bị phạm tội; vậy ta nên thực hành như thế nào?” Các vị đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn. - “Này các tỳ khưu, trường hợp vị tỳ khưu bị phạm tội vào ngày lễ Pavāraā. Này các tỳ khưu, vị tỳ khưu y nên đi đến gặp một vị tỳ khưu, nên đp thượng y một bên vai, nên ngồi chồm hổm, nên chắp tay lên, và nên nói như vầy: - “Bạch đi đc, tôi đã phạm tội tên (như vầy), tôi xin sám hối tội ấy.” Vị kia nên nói rằng: - “(Đi đức) có thấy (tội ấy) không?” - “Thưa có, tôi thy.” - “(Đi đức) hãy thu thúc trong tương lai.”

Này các tỳ khưu, trường hợp vị tỳ khưu có nghi ngờ về sự phạm tội vào ngày lễ Pavāraā. Này các tỳ khưu, vị tỳ khưu y nên đi đến gặp một vị tỳ khưu, nên đp thượng y một bên vai, nên ngồi chồm hổm, nên chắp tay lên, và nên nói như vầy: - “Bạch đi đức, tôi có nghi ngờ về sự phạm (một) tội tên (như vầy), khi nào tôi dứt khỏi hoài nghi khi ấy tôi sẽ sửa chữa tội ấy.” Nói xong thì lễ Pavāraā nên được tiến hành, nhưng không nên làm chướng ngại cho lễ Pavāraā chỉ vì nguyên nhân ấy.

Vào lúc bấy giờ, có vị tỳ khưu n trong lúc đang được thỉnh cầu thì nhớ ra tội. Khi ấy, vị tỳ khưu y đã khởi ý điu này: “Đức Thế Tôn đã quy định rằng: ‘Vị bị phạm tội không nên thỉnh cầu’ và ta thì bị phạm tội; vậy ta nên thực hành như thế nào?” Các vị đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn. - “Này các tỳ khưu, trường hợp vị tỳ khưu trong lúc đang được thỉnh cầu thì nhớ ra tội. Này các tỳ khưu, vị tỳ khưu ấy nên nói với vị tỳ khưu bên cnh như vầy: “Bạch đi đc, tôi đã phạm tội tên (như vy), sau khi đứng dậy khỏi đây tôi sẽ sửa chữa tội ấy.” Nói xong thì nên thỉnh cầu, nhưng không nên làm chướng ngại cho việc thỉnh cầu chỉ vì nguyên nhân ấy. Này các tỳ khưu, trường hợp vị tỳ khưu trong lúc đang được thỉnh cầu thì có nghi ngờ về sự phạm tội. Này các tỳ khưu, vị tỳ khưu ấy nên nói với vị tỳ khưu bên cnh như vầy: “Bạch đi đức, tôi có nghi ngờ về sự phạm (một) tội tên (như vầy), khi nào tôi dứt khỏi hoài nghi khi ấy tôi sẽ sửa chữa tội ấy.” Nói xong thì nên thỉnh cầu, nhưng không nên làm chướng ngại cho việc thỉnh cầu chỉ vì nguyên nhân ấy.

Vào lúc bấy giờ, tại trú xứ nọ vào ngày lễ Pavāraā toàn bộ hội chúng đã phạm tội giống nhau. Khi ấy, các vị tỳ khưu y đã khởi ý điu này: “Đức Thế Tôn đã quy định rằng: ‘Không nên sám hối tội (đã phạm) giống nhau, không nên ghi nhận tội (đã phạm) giống nhau’ và toàn bộ hội chúng này đã phạm tội giống nhau, vậy chúng ta nên thực hành như thế nào?”

Các vị đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn. - “Này các tỳ khưu, trường hợp tại trú xứ nọ vào ngày lễ Pavāraā toàn bộ hội chúng đã phạm tội giống nhau. Này các tỳ khưu, ngay trong hôm ấy các vị tỳ khưu ấy nên phái một vị tỳ khưu đi đến trú xứ lân cận (bảo rằng): “Này đi đức, hãy đi và sau khi sửa chữa tội ấy hãy quay trở về, chúng tôi sẽ sửa chữa lại tội ấy trong sự hiện diện của đi đức.” Nếu việc ấy đt đưc như thế, việc ấy như vậy là tốt đẹp. Này các tỳ khưu, nếu không đt đưc (như thế) thì hội chúng cần được thông báo bởi vị tỳ khưu có kinh nghiệm, đ năng lực:

“Bạch các ngài, xin hội chúng hãy lắng nghe tôi. Toàn bộ hội chúng này đã phạm tội giống nhau, khi nào (hội chúng) nhìn thấy vị tỳ khưu khác trong sạch không phạm tội khi ấy (hội chúng) sẽ sửa chữa tội ấy trong sự hiện diện của vị ấy.” Nói xong, thì lễ Pavāraā nên được tiến hành, nhưng không nên làm chướng ngại cho lễ Pavāraā chỉ vì nguyên nhân ấy.

Này các tỳ khưu, trường hợp tại trú xứ nọ vào ngày lễ Pavāraā toàn bộ hội chúng có nghi ngờ về sự phạm tội giống nhau. Hội chúng cần được thông báo bởi vị tỳ khưu có kinh nghim, đ năng lực: “Bạch các ngài, xin hội chúng hãy lắng nghe tôi. Toàn bộ hội chúng này có nghi ngờ về sự phạm tội giống nhau, khi nào (hội chúng) dứt khỏi hoài nghi khi ấy (hội chúng) sẽ sửa chữa tội ấy.” Nói xong, thì lễ Pavāraā nên được tiến hành, nhưng không nên làm chướng ngại cho lễ Pavāraā chỉ vì nguyên nhân ấy.

Dứt tụng phẩm thứ nhất.

--ooOoo--

[1] Pavāraā: là danh từ có ý nghĩa là ‘sự thỉnh cầu,’ và còn là tên của buổi lễ dành cho các tỳ khưu đã hoàn tất mùa (an cư) mưa thi đim trước. Lễ này đã được dịch là Tự Tứ. Ở ngữ cảnh này, chúng tôi mạn phép giữ nguyên từ Pāli cho tên của cuộc lễ. Còn Pavāreti là động từ. Chúng tôi sẽ dịch theo hai lối là ‘thỉnh cầu’ hoặc ‘tiến hành lễ Pavāraā’ tùy theo ngữ cảnh.



Phiên bản thư viện demo v4.5 [Tipiṭaka Tiếng Việt] Theravada