Vào lúc bấy giờ, ở Bārāasī có ngưi con trai gia đình danh giá tên Yasa, là con trai nhà đại phú, có vóc dáng mảnh mai. Chàng trai có ba tòa lâu đài: một dành cho mùa lạnh, một dành cho mùa nóng, một dành cho mùa mưa. Vào bn tháng mùa mưa ở trong tòa lâu đài dành cho mùa mưa, trong lúc được phục vụ bởi các nữ công tấu nhạc, chàng không bước xuống phía dưới của tòa lâu đài.

Khi ấy, trong lúc đưc phú cho, được thừa hưng, được phục vụ bởi năm phần dục lạc,[10] ngưi con trai gia đình danh giá Yasa đã nằm xuống ngủ trước rồi sau đó đám hầu thiếp mới nằm xuống ngủ. Và cây đèn du đưc đốt trọn đêm.

Khi ấy, ngưi con trai gia đình danh giá Yasa đã thức dậy trưc và đã nhìn thấy đám hầu thiếp của mình đang ng, cây đàn ở khuỷu tay của nàng nọ, cái trống con ở cổ của nàng kia, cái trống ở đùi của nàng khác, nàng nọ có (đầu tóc) xổ ra, nàng kia nhễu nước dãi, các nàng khác thì nói lảm nhảm, chàng nghĩ rằng bãi tha ma đã đến ở trong tầm tay. Sau khi nhìn thấy, chàng trai đã thấy rõ đưc điều bất lợi và đã thiết lập tâm ở sự chán nản.

Khi ấy, ngưi con trai gia đình danh giá Yasa đã thốt lên lời cảm thán rằng: “Thật là chán nản! Thật là khổ sở!”

Sau đó, ngưi con trai gia đình danh giá Yasa đã mang vào đôi hài bng vàng và đi đến cánh cửa lớn của dinh thự. Các phi nhân đã mở cánh cửa ra (nghĩ rằng): “Chớ có ai gây trở ngại đến việc rời nhà xuất gia sống không nhà của ngưi con trai gia đình danh giá Yasa.”

Sau đó, người con trai gia đình danh giá Yasa đã đi đến cổng thành phố. Các phi nhân đã mở cánh cửa ra (nghĩ rằng): “Chớ có ai gây trở ngại đến việc rời nhà xuất gia sống không nhà của ngưi con trai gia đình danh giá Yasa.”

Sau đó, ngưi con trai gia đình danh giá Yasa đã đi đến Isipatana, chỗ vườn nai. Vào lúc bấy giờ, đức Thế Tôn sau khi thức dậy vào lúc hừng sáng của đêm đang đi kinh hành ở ngoài trời. Đức Thế Tôn đã nhìn thấy ngưi con trai gia đình danh giá Yasa từ đng xa đang đi lại, sau khi nhìn thấy đã rời đường kinh hành và ngồi xuống trên chỗ ngồi được sắp đặt sẵn. Khi ấy, ở không xa đức Thế Tôn lắm ngưi con trai gia đình danh giá Yasa đã thốt lên lời cảm thán rằng: “Thật là chán nản! Thật là khổ sở!”

Khi ấy, đức Thế Tôn đã nói với ngưi con trai gia đình danh giá Yasa điều này: - “Này Yasa, việc này không chán nản, việc này không khổ sở. Này Yasa, hãy đến và ngồi xuống. Ta sẽ thuyết giảng Giáo Pháp cho ngươi.” Khi y, ngưi con trai gia đình danh giá Yasa (nghĩ rằng): “Nghe nói việc này không chán nản, việc này không khổ sở” nên mừng rỡ phấn chấn rồi đã cởi ra đôi hài bng vàng và đi đến gần đức Thế Tôn, sau khi đến đã đảnh lễ đức Thế Tôn rồi ngồi xuống ở một bên. Đức Thế Tôn đã thuyết Pháp theo thứ lớp đến ngưi con trai gia đình danh giá Yasa đang ngồi một bên. Tức là Ngài đã giảng giải bài thuyết về bố thí, bài thuyết về giới cấm, bài thuyết về cõi trời, sự ô nhiễm hạ liệt tai hại của các dục, sự lợi ích của việc xuất ly. Khi đức Thế Tôn biết đưc ngưi con trai gia đình danh giá Yasa có tâm đã sẵn sàng, dễ uốn nắn, không còn chướng ngại, hưng thượng, tịnh tín, Ngài đã phô bày Pháp thuyết giảng đã đưc chư Phật khai mở là: Khổ, Tập, Diệt, Đạo. Cũng giống như tấm vải sạch chưa bị vết nhơ có thể nhuộm màu một cách toàn vẹn; tương t như thế, ngay tại chỗ ngồi ấy Pháp nhãn không nhiễm bụi trần, không vết nhơ đã sanh khởi đến ngưi con trai gia đình danh giá Yasa: “Điều gì có bản tánh được sanh lên, toàn bộ điều ấy đều có bản tánh hoại diệt.”

Sau đó, mẹ của ngưi con trai gia đình danh giá Yasa đã đi lên tòa lâu đài và không thấy ngưi con trai gia đình danh giá Yasa nên đã đi đến gặp người gia chủ đi phú, sau khi đến đã nói với người gia chủ đi phú điều này: - “Gia chủ ơi, không có nhìn thấy con trai ông là Yasa.” Khi ấy, người gia chủ đi phú đã phân công cho các sứ giả phi ngựa bốn phương, còn chính bản thân đã đi đến Isipatana, chỗ vưn nai. Người gia chủ đi phú đã nhìn thấy dấu vết in (xuống đất) của đôi hài bằng vàng, sau khi nhìn thấy đã đi theo chính dấu vết ấy. Đức Thế Tôn đã nhìn thấy người gia chủ đại phú từ đng xa đang đi lại, sau khi nhìn thấy đức Thế Tôn đã khởi ý điều này: “Hay là ta nên thi triển thần thông đ cho người gia chủ đại phú ngồi ở đây không thể nhìn thấy ngưi con trai gia đình danh giá Yasa đang ngồi ở đây.” Ri đức Thế Tôn đã thi triển thần thông như thế ấy.

Sau đó, người gia chủ đi phú đã đi đến gần đức Thế Tôn, sau khi đến đã nói với đức Thế Tôn điều này: - “Bạch ngài, vậy chớ đức Thế Tôn có thể nhìn thấy ngưi con trai gia đình danh giá Yasa không?” - “Này gia chủ, như thế thì ông hãy ngồi xuống đi. Có lẽ khi ông ngồi xuống ở đây, ông có thể nhìn thấy ngưi con trai gia đình danh giá Yasa đang ngồi ở đây.”

Khi ấy, người gia chủ đại phú (nghĩ rằng): “Nghe nói khi ta ngồi xuống ở chính nơi đây, ta sẽ nhìn thấy ngưi con trai gia đình danh giá Yasa đang ngồi ở đây” nên mừng rỡ phấn chấn rồi đã đảnh lễ đức Thế Tôn và ngồi xuống ở một bên. Đức Thế Tôn đã thuyết Pháp theo thứ lớp đến người gia chủ đi phú đang ngồi một bên. ―(như trên)― không còn cần sự trợ duyên của ngưi khác, (người gia chủ đi phú) đã nói với đức Thế Tôn điều này: - “Bạch ngài, thật là tuyệt vời! Bạch ngài, thật là tuyệt vời! Bạch ngài, giống như người có thể lật ngửa vật đã được úp lại, mở ra vật đã bị che kín, chỉ đường cho kẻ lạc lối, đem li cây đèn du nơi bóng tối (nghĩ rằng): “Những người có mắt sẽ nhìn thấy được các hình dáng;” tương t như thế, Pháp đã đưc đức Thế Tôn giảng rõ bằng nhiều phương tiện. Bạch ngài, con đây xin đi đến nương nh đức Thế Tôn, Giáo Pháp, và Hội chúng tỳ khưu. Xin đức Thế Tôn chấp nhận con là nam cư sĩ đã đi đến nương nhờ kể từ hôm nay cho đến trọn đi. Và ông ta đã trở thành vị nam cư sĩ đc ba câu[11] đầu tiên ở thế gian.

Sau đó, khi đang được giảng giải Giáo Pháp và trong khi quán sát bản chất như đã được thấy như đã được biết, tâm của người cha của ngưi con trai gia đình danh giá Yasa đã không còn chấp thủ và đã được giải thoát khỏi các lậu hoặc. Khi ấy, đức Thế Tôn đã khởi ý điu này: “Khi đang được giảng giải Giáo Pháp và trong khi quán sát bản chất như đã được thấy như đã được biết, tâm của người cha của ngưi con trai gia đình danh giá Yasa đã không còn chấp thủ và đã được giải thoát khỏi các lậu hoặc. Còn ngưi con trai gia đình danh giá Yasa không thể nào quay trở lại đời sống thấp kém để thọ hưởng các dục lạc giống như trưc đây khi còn ở tại gia, hay là ta nên thu hồi sự thi triển thần thông ấy?”

Sau đó, đức Thế Tôn đã thu hồi sự thi triển thần thông ấy. Người gia chủ đi phú đã nhìn thấy ngưi con trai gia đình danh giá Yasa đang ngồi, sau khi nhìn thấy đã nói với người con trai gia đình danh giá Yasa điều này: - “Này Yasa yêu quý, mẹ của con đã phải than vãn và sầu muộn. Hãy đem lại cho mẹ cuộc sống.”

Khi ấy, ngưi con trai gia đình danh giá Yasa đã ngước nhìn đức Thế Tôn. Khi ấy, đức Thế Tôn đã nói với người gia chủ đi phú điều này: - “Này gia chủ, ngươi nghĩ gì về việc ấy (là việc) ngưi con trai gia đình danh giá Yasa đã thấy đã biết được Pháp bằng trí của vị hữu học, bằng sự hiểu biết của vị hữu học cũng giống ngươi vậy? Chàng trai ấy trong khi quán sát bản chất như đã được thấy như đã được biết, tâm đã không còn chấp thủ và đã được giải thoát khỏi các lậu hoặc. Này gia chủ, có thể nào Yasa quay trở lại đời sống thấp kém để thọ hưởng các dục lạc giống như trưc đây khi còn ở tại gia hay không?” - “Bạch ngài, điều ấy không thể nào.” - “Này gia chủ, ngưi con trai gia đình danh giá Yasa đã thấy đã biết được Pháp bằng trí của vị hữu học, bằng sự hiểu biết của vị hữu học cũng giống ngươi vậy. Chàng trai ấy trong khi quán sát bản chất như đã được thấy như đã được biết, tâm đã không còn chấp thủ và đã được giải thoát khỏi các lậu hoặc. Này gia chủ, Yasa không thể nào quay trở lại đời sống thấp kém để thọ hưởng các dục lạc giống như trưc đây khi còn ở tại gia.”

- “Bạch ngài, thật là lợi ích cho ngưi con trai gia đình danh giá Yasa! Thật khéo thành tựu cho ngưi con trai gia đình danh giá Yasa! Như là việc tâm của ngưi con trai gia đình danh giá Yasa đã không còn chấp thủ và đã được giải thoát khỏi các lậu hoặc. Bạch ngài, xin đức Thế Tôn nhận lời con về bữa thọ trai ngày mai cùng với ngưi con trai gia đình danh giá Yasa làm Thị giả. Đức Thế Tôn đã nhận lời bằng thái độ im lặng.

Khi ấy, người gia chủ đại phú hiểu được sự nhận lời của đức Thế Tôn nên đã từ chỗ ngồi đứng dậy, đảnh lễ đức Thế Tôn, hướng vai phải nhiễu quanh, rồi ra đi. Sau đó, khi người gia chủ đi phú ra đi không lâu, ngưi con trai gia đình danh giá Yasa đã nói với đức Thế Tôn điều này: - “Bạch ngài, con có thể xuất gia trong sự hiện diện của đức Thế Tôn không? Con có thể tu lên bậc trên không?” Đức Thế Tôn đã nói rằng: - “Này tỳ khưu, hãy đến. Pháp đã khéo được thuyết giảng, hãy thực hành Phạm hạnh một cách đúng đn để chấm dứt khổ đau.” Chính lời nói ấy đã là sự tu lên bậc trên của đi đức ấy.

Vào lúc bấy giờ, trên thế gian có bảy vị A-la-hán.

Dứt sự xuất gia của Yasa.

--ooOoo--

Khi ấy vào buổi sáng, đức Thế Tôn đã mặc y, cầm y bát, đi đến tư gia ca người gia chủ đại phú cùng với đi đức Yasa làm thị giả, sau khi đến đã ngồi xuống chỗ ngồi được sắp đặt sẵn. Khi ấy, người mẹ và người vợ cũ của đi đc Yasa đã đi đến gặp đức Thế Tôn, sau khi đến đã đảnh lễ đức Thế Tôn rồi ngồi xuống ở một bên. Đức Thế Tôn đã thuyết Pháp theo thứ lớp đến các người nữ ấy. Tức là Ngài đã giảng giải bài thuyết về bố thí, bài thuyết về giới cấm, bài thuyết về cõi trời, sự ô nhiễm hạ liệt tai hại của các dục, và sự lợi ích của việc xuất ly. Khi đức Thế Tôn biết đưc các người nữ ấy có tâm đã sẵn sàng, dễ uốn nắn, không còn chướng ngại, hưng thượng, tịnh tín, Ngài đã phô bày Pháp thuyết giảng đã đưc chư Phật khai mở là: Khổ, Tập, Diệt, Đạo. Cũng giống như tấm vải sạch chưa bị vết nhơ có thể nhuộm màu một cách toàn vẹn; tương t như thế, ngay tại chỗ ngồi ấy Pháp nhãn không nhiễm bụi trần, không vết nhơ đã sanh khởi đến các người nữ ấy: “Điều gì có bản tánh được sanh lên, toàn bộ điều ấy đều có bản tánh hoại diệt.” Sau đó, khi đã thấy đưc Pháp, đã thành tựu đưc Pháp, đã hiểu đưc Pháp, đã thấm nhuần Pháp, hoài nghi đã không còn, sự lưỡng lự đã dứt hẳn, đã thành tựu niềm tin vào Giáo Pháp của bậc Đo Sư, không còn cần sự trợ duyên của người khác, các người nữ ấy đã nói với đức Thế Tôn điều này: - “Bạch ngài, thật là tuyệt vời! Bạch ngài, thật là tuyệt vời! ―(như trên)― Bch ngài, chúng con đây xin đi đến nương nh đức Thế Tôn, Giáo Pháp, và Hội chúng tỳ khưu. Xin đức Thế Tôn chấp nhận chúng con là các nữ cư sĩ đã đi đến nương nhờ kể từ hôm nay cho đến trọn đi. Và các người nữ ấy đã trở thành những nữ cư sĩ đc ba câu đầu tiên ở thế gian.

Sau đó, khi đã tự tay làm hài lòng và toại ý đức Thế Tôn và đi đức Yasa với thức ăn thượng hạng loại cứng loại mềm, đến khi đức Thế Tôn đã thọ thực xong bàn tay đã rời khỏi bình bát, người mẹ ngưi cha và người vợ cũ của đi đc Yasa đã ngồi xuống ở một bên. Khi ấy, đức Thế Tôn đã chỉ dạy, thức tỉnh, khuyến khích, và tạo niềm phấn khởi cho người mẹ ngưi cha và người vợ cũ của đi đức Yasa bằng bài Pháp thoại, rồi đã từ chỗ ngồi đứng dậy và ra đi.

Bốn người bạn tại gia của đi đức Yasa (tên) Vimala, Subāhu, Puṇṇaji, Gavampati là những người con trai của các gia đình đại phú và khá giả ở thành Bārāasī đã nghe được rằng: “Nghe nói ngưi con trai gia đình danh giá Yasa đã cạo bỏ râu tóc, khoác lên các tấm vải màu ca-sa, và rời nhà xuất gia sống không nhà.” Sau khi nghe, các người ấy đã khởi ý điều này: “Pháp và Luật ấy chắc chắn không phải là tầm thường! Việc xuất gia ấy không phải là tầm thưng khi mà ngưi con trai gia đình danh giá Yasa đã cạo bỏ râu tóc, khoác lên các tấm vải màu ca-sa, và rời nhà xuất gia sống không nhà!” Các người ấy đã đi đến gặp đi đc Yasa, sau khi đến đã đảnh lễ đi đức Yasa rồi đứng ở một bên. Khi ấy, đi đc Yasa đã dẫn bốn người bạn tại gia ấy đi đến gặp đức Thế Tôn, sau khi đến đã đảnh lễ đức Thế Tôn rồi ngồi xuống ở một bên. Khi đã ngồi xuống một bên, đi đc Yasa đã nói với đức Thế Tôn điều này: - “Bạch ngài, bốn người bạn tại gia này của con (tên) Vimala, Subāhu, Puṇṇaji, Gavampati là những người con trai của các gia đình đại phú và khá giả ở thành Bārāasī. Xin đức Thế Tôn hãy giáo huấn và chỉ dạy cho những người này.”

Đức Thế Tôn đã thuyết Pháp theo thứ lớp đến những người ấy. Tức là Ngài đã giảng giải bài thuyết về bố thí, bài thuyết về giới cấm, bài thuyết về cõi trời, sự ô nhiễm hạ liệt tai hại của các dục, và sự lợi ích của việc xuất ly. Khi đức Thế Tôn biết được những người ấy có tâm đã sẵn sàng, dễ uốn nắn, không còn chướng ngại, ng thượng, tịnh tín, Ngài đã phô bày Pháp thuyết giảng đã đưc chư Phật khai mở là: Khổ, Tập, Diệt, Đạo. Cũng giống như tấm vải sạch chưa bị vết nhơ có thể nhuộm màu một cách toàn vẹn; tương t như thế, ngay tại chỗ ngồi ấy Pháp nhãn không nhiễm bụi trần, không vết nhơ đã sanh khởi đến những người ấy: “Điều gì có bản tánh được sanh lên, toàn bộ điều ấy đều có bản tánh hoại diệt.” Sau đó, khi đã thấy đưc Pháp, đã thành tựu đưc Pháp, đã hiểu đưc Pháp, đã thấm nhuần Pháp, hoài nghi đã không còn, sự lưỡng lự đã dứt hẳn, đã thành tựu niềm tin vào Giáo Pháp của bậc Đo Sư, không còn cần sự trợ duyên của người khác, những người ấy đã nói với đức Thế Tôn điều này: - “Bạch ngài, chúng con có thể xuất gia trong sự hiện diện của đức Thế Tôn không? Chúng con có thể tu lên bậc trên không?”

Đức Thế Tôn đã nói rằng: - “Này các tỳ khưu, hãy đến. Pháp đã khéo được thuyết giảng, hãy thực hành Phạm hạnh một cách đúng đn để chấm dứt khổ đau.”

Chính lời nói ấy đã là sự tu lên bậc trên của các đi đức ấy. Sau đó, đức Thế Tôn đã giáo huấn, đã chỉ dạy cho các vị tỳ khưu ấy bằng bài Pháp thoại. Trong khi được giáo huấn, được chỉ dạy bởi đức Thế Tôn bằng bài Pháp thoại, tâm của các vị ấy đã không còn chấp thủ và đã được giải thoát khỏi các lậu hoặc.

Vào lúc bấy giờ, trên thế gian có mười một vị A-la-hán.

Dứt sự xuất gia của bốn người bạn tại gia.

--ooOoo--

1.Những người bạn tại gia của đi đức Yasa có số lưng năm mươi (người) là những người con trai của các gia đình đầu tiên hoặc kế tục trong xứ sở đã nghe rằng: “Nghe nói người con trai gia đình danh giá Yasa đã cạo bỏ râu tóc, khoác lên các tấm vải màu ca-sa, và rời nhà xuất gia sống không nhà.” Sau khi nghe, các người ấy đã khởi ý điều này: “Pháp và Luật ấy chắc chắn không phải là tầm thường! Việc xuất gia ấy không phải là tầm thưng khi mà ngưi con trai gia đình danh giá Yasa đã cạo bỏ râu tóc, khoác lên các tấm vải màu ca-sa, và rời nhà xuất gia sống không nhà!” Các người ấy đã đi đến gặp đi đc Yasa, sau khi đến đã đảnh lễ đi đức Yasa rồi đứng ở một bên. Khi ấy, đi đức Yasa đã dẫn các người bạn tại gia có số lưng là năm mươi (người) ấy đi đến gặp đức Thế Tôn, sau khi đến đã đảnh lễ đức Thế Tôn rồi ngồi xuống ở một bên. Khi đã ngồi xuống một bên, đi đc Yasa đã nói với đức Thế Tôn điều này: - “Bạch ngài, những người bạn tại gia này của con có số lưng năm mươi (người) là những người con trai của các gia đình đầu tiên hoặc kế tục trong xứ sở. Xin đức Thế Tôn hãy giáo huấn và chỉ dạy cho những người này.”

Đức Thế Tôn đã thuyết Pháp theo thứ lớp đến những người ấy. Tức là Ngài đã giảng giải bài thuyết về bố thí, bài thuyết về giới cấm, bài thuyết về cõi trời, sự ô nhiễm hạ liệt tai hại của các dục, và sự lợi ích của việc xuất ly. ―(như trên)― Khổ, Tập, Diệt, Đạo. Cũng giống như tấm vải sạch chưa bị vết nhơ có thể nhuộm màu một cách toàn vẹn; tương t như thế, ngay tại chỗ ngồi ấy Pháp nhãn không nhiễm bụi trần, không vết nhơ đã sanh khởi đến những người ấy: “Điều gì có bản tánh được sanh lên, toàn bộ điều ấy đều có bản tánh hoại diệt.” Sau đó, khi đã thấy đưc Pháp, đã thành tựu đưc Pháp, đã hiểu đưc Pháp, đã thấm nhuần Pháp, hoài nghi đã không còn, sự lưỡng lự đã dứt hẳn, đã thành tựu niềm tin vào Giáo Pháp của bậc Đo Sư, không còn cần sự trợ duyên của người khác, những người ấy đã nói với đức Thế Tôn điều này: - “Bạch ngài, chúng con có thể xuất gia trong sự hiện diện của đức Thế Tôn không? Chúng con có thể tu lên bậc trên không?” Đức Thế Tôn đã nói rằng: - “Này các tỳ khưu, hãy đến. Pháp đã khéo được thuyết giảng, hãy thực hành Phạm hạnh một cách đúng đn để chấm dứt khổ đau.” Chính lời nói ấy đã là sự tu lên bậc trên của đi đức ấy. Sau đó, đức Thế Tôn đã giáo huấn, đã chỉ dạy cho các vị tỳ khưu ấy bằng bài Pháp thoại. Trong lúc được giáo huấn, được chỉ dạy bởi đức Thế Tôn bằng bài Pháp thoại, tâm của các vị ấy đã không còn chấp thủ và đã được giải thoát khỏi các lậu hoặc.

Vào lúc bấy giờ, trên thế gian có sáu mươi mốt vị A-la-hán.

Sau đó, đức Thế Tôn đã bảo các vị tỳ khưu rằng: - “Này các tỳ khưu, ta đã thoát khỏi tất cả các sự trói buộc thuộc về cõi trời và loài người. Này các tỳ khưu, các ngươi cũng đã thoát khỏi tất cả các sự trói buộc thuộc về cõi trời và loài người. Này các tỳ khưu, hãy cất bước du hành vì lợi ích của nhiều người, vì an lạc của nhiều người, vì lòng thương xót thế gian, vì sự tiến hóa, sự lợi ích, sự an vui của chư Thiên và nhân loại, chớ đi hai người chung một (đường). Này các tỳ khưu, hãy thuyết giảng Giáo Pháp toàn hảo ở đon đầu, toàn hảo ở đoạn giữa, và toàn hảo ở đoạn kết, thành tựu về ý nghĩa, thành tựu về văn tự, giảng giải về Phạm hạnh thanh tịnh một cách trọn vẹn và đy đủ. Có những hạng người sanh lên bị ít ô nhiễm sẽ là những người hiểu đưc Giáo Pháp, (nhưng) do việc không nghe Giáo Pháp sẽ bị tha hóa. Này các tỳ khưu, ta cũng s đi đến ngôi làng của Senāni  Uruvelā cho việc thuyết giảng Giáo Pháp.”

Sau đó, Ma Vương tội lỗi đã đi đến gặp đức Thế Tôn, sau khi đến đã nói với đức Thế Tôn bằng những lời kệ này:

- “Ngài đã bị trói buộc bởi tất cả các sự trói buộc thuộc về cõi trời và loài ngưi. Ngài đã bị trói buộc bởi sự trói buộc lớn lao. Này vị Sa-môn, Ngài không thoát khỏi ta!”

 (Đức Thế Tôn đáp lại rằng):

- “Ta đã được thoát khỏi tất cả các sự trói buộc thuộc về cõi trời và loài ngưi. Ta đã được thoát khỏi sự trói buộc lớn lao. Này kẻ gây tử vong, ngươi đã bị thua rồi.”

- “Có sự di chuyển ở khoảng không, sự trói buộc này hoạt động ở trong tâm. Ta sẽ trói buộc ngài lại bằng vật ấy. Này vị Sa-môn, ngài không thoát khỏi ta!

- “Các sắc, các thinh, các hương, các vị, và các xúc là các niềm thích thú của tâm. Sự mong muốn của ta ở điều ấy đã không còn. Này kẻ gây tử vong, ngươi đã bị thua rồi.”

Khi ấy, Ma Vương tội lỗi (nghĩ rằng): “Đức Thế Tôn đã nhận ra ta rồi! Đấng Thiện Thệ đã nhận ra ta rồi!” nên xấu hổ, bực bội, rồi đã biến mất ngay tại chỗ ấy.

Dứt phần giảng về Ma Vương là phần thứ ời một.

--ooOoo--

Vào lúc bấy giờ, các vị tỳ khưu thuộc nhiều phương khác nhau, thuộc nhiều xứ sở khác nhau đã dẫn theo những người có ý muốn xuất gia, những người có ý muốn tu lên bậc trên, (nghĩ rằng): “Đức Thế Tôn sẽ cho họ xuất gia, sẽ cho họ tu lên bậc trên.” Trong trường hợp ấy, chính các vị tỳ khưu luôn cả những người có ý muốn xuất gia và những người có ý muốn tu lên bậc trên đều mệt nhọc. Khi ấy, đức Thế Tôn trong lúc thiền tịnh ở nơi thanh vắng, có ý nghĩ suy tầm như vy đã sanh khởi: “Hiện nay, các vị tỳ khưu thuộc nhiều phương khác nhau, thuộc nhiều xứ sở khác nhau đã dẫn theo những người có ý muốn xuất gia, những người có ý muốn tu lên bậc trên, (nghĩ rằng): ‘Đức Thế Tôn sẽ cho họ xuất gia và sẽ cho họ tu lên bậc trên.’ Trong trường hợp ấy, chính các vị tỳ khưu luôn cả những người có ý muốn xuất gia và những người có ý muốn tu lên bậc trên đều mệt nhọc; hay là ta nên cho phép các vị tỳ khưu rằng: ‘Này các tỳ khưu, kể từ nay ở trong mọi phương ở trong mọi xứ sở, chính các ngươi hãy cho xuất gia, hãy cho tu lên bậc trên.’”

Sau đó vào lúc chiều tối, đức Thế Tôn đã xuất khỏi thiền tịnh rồi nhân lý do ấy nhân sự kiện ấy đã triệu tập hội chúng tỳ khưu li, đã thuyết Pháp thoại, rồi đã bảo các vị tỳ khưu rằng: - “Này các tỳ khưu,  đây trong lúc ta thiền tịnh ở nơi thanh vắng, có ý nghĩ suy tầm như vy đã sanh khởi: ‘Hiện nay, các vị tỳ khưu thuộc nhiều phương khác nhau, thuộc nhiều xứ sở khác nhau đã dẫn theo những người có ý muốn xuất gia, những người có ý muốn tu lên bậc trên, (nghĩ rằng): ‘Đức Thế Tôn sẽ cho họ xuất gia, sẽ cho họ tu lên bậc trên.’ Trong trường hợp ấy, chính các vị tỳ khưu luôn cả những người có ý muốn xuất gia và những người có ý muốn tu lên bậc trên đều mệt nhọc; hay là ta nên cho phép các vị tỳ khưu rằng: ‘Này các tỳ khưu, kể từ nay ở trong mọi phương ở trong mọi xứ sở, chính các ngươi hãy cho xuất gia, hãy cho tu lên bậc trên.’”

Này các tỳ khưu, ta cho phép ‘kể từ nay ở trong mọi phương ở trong mọi xứ sở, chính các ngươi hãy cho xuất gia, hãy cho tu lên bậc trên.’ Và này các tỳ khưu, nên cho xut gia như vầy, nên cho tu lên bậc trên như vy: Trước tiên, nên bảo cạo bỏ râu tóc, bảo khoác lên các tấm vải màu ca-sa, bảo đp thượng y một bên vai, bảo đảnh lễ ở chân các vị tỳ khưu, bảo ngồi chồm hổm, bảo chắp tay lên, và nên bảo rằng: “Ngươi hãy nói như vầy:

Tôi đi đến đức Phật là nơi nương nhờ (Tôi xin quy y Phật).

Tôi đi đến Giáo Pháp là nơi nương nhờ (Tôi xin quy y Pháp).

Tôi đi đến Hội Chúng là nơi nương nh (Tôi xin quy y Tăng).[12]

Lần thứ nhì, tôi đi đến đức Phật là nơi nương nhờ.

Lần thứ nhì, tôi đi đến Giáo Pháp là nơi nương nhờ.

Lần thứ nhì, tôi đi đến Hội Chúng là nơi nương nhờ.

Lần thứ ba, tôi đi đến đức Phật là nơi nương nhờ.

Lần thứ ba, tôi đi đến Giáo Pháp là nơi nương nhờ.

Lần thứ ba, tôi đi đến Hội Chúng là nơi nương nhờ.”

Này các tỳ khưu, ta cho phép sự xuất gia, sự tu lên bậc trên bằng ba sự đi đến nương nhờ này.

Dứt phần giảng về sự xuất gia, sự tu lên bậc trên bằng ba sự đi đến nương nhờ là phần thứ mười hai.

--ooOoo--

Sau đó, khi đã sống qua mùa mưa, đức Thế Tôn đã bảo các tỳ khưu rằng: - “Này các tỳ khưu, ta có các s tác ý đúng đắn, có các sự tinh tấn chân chánh đúng đn, đã đt đến sự giải thoát vô thưng, đã chứng ngộ sự giải thoát vô thượng. Này các tỳ khưu, ngay c các ngươi cũng có các s tác ý đúng đắn, có các sự tinh tấn chân chánh đúng đn, (các ngươi) hãy đt đến sự giải thoát vô thượng, hãy chứng ngộ sự giải thoát vô thượng.”

Sau đó, Ma Vương tội lỗi đã đi đến gặp đức Thế Tôn, sau khi đến đã nói với đức Thế Tôn bằng bài kệ này:

- “Ngài đã bị trói buộc bởi tất cả các sự trói buộc thuộc về cõi trời và loài ngưi. Ngài đã bị trói buộc bởi sự trói buộc của tử thần. Này vị Sa-môn, Ngài không thoát khỏi ta!”

ức Thế Tôn đáp lại rằng):

- “Ta đã được thoát khỏi tất cả các sự trói buộc thuộc về cõi trời và loài ni. Ta đã được thoát khỏi sự trói buộc của tử thần. Này kẻ gây tử vong, ngươi đã bị thua rồi.”

Khi ấy, Ma Vương tội lỗi (nghĩ rằng): “Đức Thế Tôn đã nhận ra ta rồi! Đấng Thiện Thệ đã nhận ra ta rồi!” nên xấu hổ, bực bội, rồi đã biến mất ngay tại chỗ ấy.

Sau đó, khi đã ngự tại thành Bārāasī theo như ý thích, đức Thế Tôn đã ra đi du hành về phía Uruvelā. Khi y, đức Thế Tôn đã rời đường lộ đi đến khu rừng rậm nọ, sau khi đến đã đi sâu vào trong khu rừng rậm ấy và đã ngồi xuống ở gốc cây nọ.

Vào lúc bấy giờ, những người bạn thuộc nhóm các vương tử có số lưng ba mươi (người) cùng với những người vợ đang du ngoạn ở trong khu rừng rậm ấy. Một người không có vợ. Cô gái điếm đã được dẫn đến cho nhu cầu của vị ấy. Rồi trong khi những người ấy đang lơ đễnh du ngoạn, cô gái điếm ấy đã cầm lấy gói đồ rồi tẩu thoát.

Sau đó, nhng người bạn ấy trong lúc giúp đỡ bạn bè, trong lúc tìm kiếm ngưi đàn bà ấy, trong khi lang thang ở khu rừng rậm ấy, đã nhìn thấy đức Thế Tôn đang ngồi ở gốc cây nọ, sau khi nhìn thấy đã đi đến gần đức Thế Tôn, sau khi đến đã nói với đức Thế Tôn điều này: - “Bạch ngài, vậy chớ đức Thế Tôn có nhìn thấy ngưi đàn bà không?” - “Này các vương tử, các vị có chuyện gì với ngưi đàn bà?” - “Bạch ngài, ở đây chúng tôi là nhng người bạn thuộc nhóm các vương tử có số lưng ba mươi (ngưi) đã cùng với những người vợ du ngoạn ở trong khu rừng rậm này. Một người không có vợ. Cô gái điếm đã được dẫn đến cho nhu cầu của vị ấy. Bạch ngài, rồi trong khi chúng tôi đang lơ đễnh du ngoạn, cô gái điếm ấy đã cầm lấy gói đồ rồi tẩu thoát. Bạch ngài, là những người bạn trong lúc giúp đỡ bạn bè, trong lúc tìm kiếm ngưi đàn bà y, chúng tôi đây lang thang đi đến khu rừng rậm này.”

- “Này các vương tử, các vị nghĩ thế nào về việc các vị nên tìm kiếm ngưi đàn bà và việc các vị nên tìm kiếm lấy chính mình, đối với các vị việc nào quan trọng hơn?” - “Bch ngài, đối với chúng tôi việc chúng tôi nên tìm kiếm lấy chính mình là việc quan trọng hơn.” - “Này các vương tử, chính vì việc ấy các vị hãy ngồi xuống, ta sẽ thuyết giảng Giáo Pháp cho các vị.” - “Bạch ngài, xin vâng.” Rồi những người bạn thuộc nhóm các vương tử ấy đã đảnh lễ đức Thế Tôn rồi ngồi xuống ở một bên.

Đức Thế Tôn đã thuyết Pháp theo thứ lớp đến các vị ấy. Tức là ngài đã giảng giải bài thuyết về bố thí, bài thuyết về giới cấm, bài thuyết về cõi trời, sự ô nhiễm hạ liệt tai hại của các dục, và sự lợi ích của việc xuất ly. Khi đức Thế Tôn biết được các vị ấy có tâm đã sẵn sàng, dễ uốn nắn, không còn chướng ngại, hưng thượng, tịnh tín, ngài đã phô bày Pháp thuyết giảng đã đưc chư Phật khai mở là: Khổ, Tập, Diệt, Đạo. Cũng giống như tấm vải sạch chưa bị vết nhơ có thể nhuộm màu một cách toàn vẹn; tương t như thế, ngay tại chỗ ngồi ấy Pháp nhãn không nhiễm bụi trần, không vết nhơ đã sanh khởi đến các vị ấy: “Điều gì có bản tánh được sanh lên, toàn bộ điều ấy đều có bản tánh hoại diệt.” Sau đó, khi đã thấy đưc Pháp, đã thành tựu đưc Pháp, đã hiểu đưc Pháp, đã thấm nhuần Pháp, hoài nghi đã không còn, sự lưỡng lự đã dứt hẳn, đã thành tựu niềm tin vào Giáo Pháp của bậc Đo Sư, không còn cần sự trợ duyên của người khác, các vị ấy đã nói với đức Thế Tôn điều này: - “Bạch ngài, chúng con có thể xuất gia trong sự hiện diện của đức Thế Tôn không? Chúng con có thể tu lên bậc trên không?” Đức Thế Tôn đã nói rằng: - “Này các tỳ khưu, hãy đến. Pháp đã khéo được thuyết giảng, hãy thực hành Phạm hạnh một cách đúng đn để chấm dứt khổ đau.” Chính lời nói ấy đã là sự tu lên bậc trên của đi đức ấy.

Dứt câu chuyện về những người bạn thuộc nhóm các vương t.

Tụng phẩm thứ nhì.

--ooOoo--

 

[10] Khoái lạc sanh lên do năm giác quan: mt, tai, mũi, lưỡi, và thân (ND).

[11] Lúc ấy trên thế gian này đã có sáu vị tỳ khưu A-la-hán đại diện cho Tăng Bảo. Vì thế người gia chủ này đưc quy y (đi đến nương nhờ) Tam Bảo và đã đc ba câu là: “Quy y đức Thế Tôn, Quy y Giáo Pháp, và Quy y Hội Chúng tỳ khưu,” (ND).

[12] Saṅgha: được dịch âm thành Tăng-già, nói ngắn gọn là Tăng. Saṅgha có ý nghĩa thông thường là hội chúng, tập thể, v.v... và đưc thiêng liêng hóa khi đề cập đến ba ngôi Tam Bảo: Phật, Pháp, Tăng. Điều cần lưu ý ở đây là tsaṅgha cũng được dùng cho tỳ khưu ni: bhikkhunīsaṅgha = hội chúng tỳ khưu ni, t khưu ni Tăng (tương t như bhikkhusaṅgha = hội chúng tỳ khưu, t khưu Tăng). Tuy nhiên, hin nay có khuynh hướng dùng chữ ‘Tăng’ chỉ dành riêng cho phái Nam ví dụ như: “Tứ chúng gồm có Tăng, Ni, Thiện Nam, Tín Nữ,” hoặc “Kính bạch chư đi đc Tăng Ni,” hoặc bình dân hơn như “ông Tăng bà Ni,” v.v... Ch ‘Tăng’ này ch tương đương với từ ‘bhikkhu = tỳ khưu’ chứ không phải là saṅgha như ở trên (ND).



Phiên bản thư viện demo v4.5 [Tipiṭaka Tiếng Việt] Theravada