11. Hoti sīlavataṃ attho paṭisanthāra vuttinaṃ, lakkhaṇaṃ passa āyantaṃ ñātisaṅghapurakkhataṃ, atha passasimaṃ kāḷaṃ suvihīnaṃva ñātihī ”ti.

11. Sự hưng thịnh là dành cho những người có giới, có lối cư xử tiếp đãi ân cần. Hãy nhìn xem nai Lakkhaṇa dẫn đầu đoàn thân quyến đang trở về, rồi hãy nhìn xem nai Kāḷa này bị mất mát trầm trọng về quyến thuộc.

Con người có giới hạnh
Ðược phần thưởng đón mừng,
Xem Lak-kha-na về,
Cầm đầu chúng bà con,
Hãy xem Ca-la này
Với bà con hủy diệt.

Câu chuyện 11

2. Nigrodhamigajātakaṃ - Bổn sanh Nai Nigrodha

12. Nigrodhameva seveyya na sākhamupasaṃvase, nigrodhasmiṃ mataṃ seyyo yañce sākhasmiṃ jīvitan ”ti.

12. Nên thân cận với Nigrodha mà thôi, không nên sống gần Sākha. Việc bị chết ở chổ Nigrodha còn tốt hơn là việc có được sự sống còn ở nơi Sākha.

Sống với Ni-gro-dha,
Chớ sống với Sa-kha!
Chết với Ni-gro-dha,
Hơn sống với Sa-kha.

Câu chuyện 12

3. Kaṇḍinajātakaṃ - Bổn sanh Mũi Tên

13. Dhiratthu kaṇḍinaṃ sallaṃ purisaṃ gāḷhavedhinaṃ, dhiratthu taṃ janapadaṃ yatthitthī parināyikā, te cāpi dhikkitā sattā ye itthīnaṃ vasaṃ gatā ”ti.

13. Thật xấu hổ thay cây tên có mũi nhọn xuyên sâu vào người. Thật xấu hổ thay xứ sở ấy, nơi có vị lãnh đạo là người nữ. Và luôn cả những kẻ chịu ở dưới quyền lực của các nữ nhân, các chúng sanh ấy bị quở trách.

Ðáng nguyền rủa mũi tên
Bắn người gây thống khổ,
Ðáng nguyền rủa quốc độ
Do nữ thần lãnh đạo!
Ðáng nguyền rủa chúng sanh
Chịu thần phục đàn bà!

Câu chuyện 13

4. Vātamigajātakaṃ - Bổn sanh Con Nai Gió

14. Na kiratthi rasehi pāpiyo āvasehi vā santhavehi vā, vātamigaṃ gehanissitaṃ vasamānesi rasehi sañjayo ”ti.

14. Nghe nói rằng không có gì tệ hại hơn các vị nếm, hoặc các chỗ ngụ, hoặc các sự giao thiệp bạn bè. (Người giữ vườn) Sañjaya đưa con nai gió sống ở rừng sâu vào sự khống chế bằng các vị nếm.

Không gì ác hại hơn
Truyền thuyết nói là vậy,
Ở nhà hay với bạn,
San-gia-da với vị
Chinh phục con nai gió
Chỉ nương tựa núi rừng

Câu chuyện 14

5. Kharādiyajātakaṃ - Bổn sanh Kharādiyā

15. Aṭṭhakhuraṃ kharādiye migaṃ vaṅkātivaṅkinaṃ, sattahi kalāhatikkantaṃ na taṃ ovaditussahe ”ti.

15. Này Kharādiyā, đối với con nai, loài có tám móng chân,[1] có sừng cong quẹo ở gốc và ngọn, là kẻ bỏ lỡ bảy buổi học, không nên ra sức để giáo huấn nó.

[1] Mỗi một bàn chân có hai móng, bốn chân có tám móng (JaA. i, 160).

Khi nai có tám móng
Với sừng chĩa nhiều nhánh,
Lại có bảy mưu chước
Ðể tự cứu lấy mình,
Ta không dạy nó nữa,
Hỡi Kha-ra-di-ya.

Câu chuyện 15



Phiên bản thư viện demo v4.5 [Tipiṭaka Tiếng Việt] Theravada