Như vầy tôi nghe. Một thời Tôn giả Kassapa trú ở Sāvatthī (Xá-vệ), Jetavana (Kỳ-đà Lâm), tại vườn ông Anāthapiṇḍika (Cấp Cô Ðộc).

 

Rồi Tôn giả Ānanda, vào buổi sáng, đắp y, cầm y bát, đi đến Tôn giả Mahākassapa.

Tôn giả Ānanda thưa với Tôn giả Mahākassapa:

—Thưa Tôn giả, chúng ta hãy đi đến trú xứ của các Tỷ-kheo-ni.

—Hãy đi, này Hiền giả Ānanda. Hiền giả là người có nhiều công việc, có nhiều trách nhiệm phải làm.

Lần thứ hai, Tôn giả Ānanda thưa với Tôn giả Mahākassapa:

—Hãy đi, thưa Tôn giả, chúng ta đi đến trú xứ của các Tỷ-kheo-ni.

—Hãy đi, này Hiền giả Ānanda. Hiền giả là người có nhiều công việc, có nhiều trách nhiệm phải làm.

Lần thứ ba, Tôn giả Ānanda thưa với Tôn giả Mahākassapa:

—Hãy đi, thưa Tôn giả, chúng ta hãy đi đến trú xứ của các Tỷ-kheo-ni.

Rồi Tôn giả Mahākassapa, vào buổi sáng, đắp y, cầm y bát cùng với Tôn giả Ānanda, là Sa-môn tùy tùng, đi đến một trú xứ của Tỷ-kheo-ni, sau khi đi đến, ngồi trên chỗ đã soạn sẵn.

Rồi nhiều Tỷ-kheo-ni đi đến Tôn giả Mahākassapa; sau khi đến, đảnh lễ Tôn giả Mahākassapa, rồi ngồi xuống một bên.

Tôn giả Mahākassapa với pháp thoại giảng cho các vị Tỷ-kheo-ni đang ngồi một bên ấy, khích lệ, làm cho phấn khởi, làm cho hoan hỷ.

Rồi Tôn giả Mahākassapa, sau khi với pháp thoại giảng cho các Tỷ-kheo-ni ấy, khích lệ, làm cho phấn khởi, làm cho hoan hỷ, từ chỗ ngồi đứng dậy rồi ra đi.

Rồi Tỷ-kheo-ni Thullatissā không hoan hỷ, nói lên những lời không hoan hỷ: “Làm sao Tôn giả Mahākassapa trước mặt Vedehamuni Ānanda, lại nghĩ đến thuyết pháp; ví như một người bán kim lại nghĩ, có thể bán kim cho người làm kim? Cũng vậy, Tôn giả Mahākassapa, trước mặt Vedehamuni Ānanda lại nghĩ đến thuyết pháp”.

Tôn giả Mahākassapa nghe được lời nói này của Tỷ-kheo-ni Thullatissā.

Rồi Tôn giả Mahākassapa nói với Tôn giả Ānanda:

—Thế nào, Hiền giả Ānanda, ta là người bán kim, Hiền giả là người làm kim, hay ta là người làm kim, Hiền giả là người bán kim?

—Hãy kham nhẫn, thưa Tôn giả Kassapa, ngu si là đàn bà!

—Hãy đến, Hiền giả Ānanda, chớ để cho chúng Tăng truy cứu thêm về Hiền giả. Hiền giả Ānanda, Hiền giả nghĩ thế nào?

Có phải trước mặt Thế Tôn, và giữa chúng Tăng, Hiền giả được Thế Tôn đề cập như sau: “Tùy theo mong muốn, này các Tỷ-kheo, Ta ly dục, ly bất thiện pháp, chứng đạt và an trú Thiền thứ nhất, một trạng thái hỷ lạc do ly dục sanh, có tầm, có tứ. Tùy theo mong muốn, này các Tỷ-kheo, Ānanda cũng ly dục, ly bất thiện pháp, chứng đạt và an trú Thiền thứ nhất, một trạng thái hỷ lạc do ly dục sanh, có tầm, có tứ”?

—Thưa Tôn giả, không phải vậy.

—Này Hiền giả, có phải trước mặt Thế Tôn và giữa chúng Tỷ-kheo Tăng, ta được Thế Tôn đề cập như sau: “Tùy theo mong muốn, này các Tỷ-kheo, Ta ly dục, ly bất thiện pháp, chứng đạt và an trú Thiền thứ nhất, một trạng thái hỷ lạc do ly dục sanh, có tầm, có tứ. Tùy theo mong muốn, này các Tỷ-kheo, Kassapa cũng ly dục, ly bất thiện pháp, chứng đạt và an trú Thiền thứ nhất, một trạng thái hỷ lạc do ly dục sanh, có tầm, có tứ”?

(Chín thứ đệ định và năm trí giống như trên.)

Hiền giả nghĩ thế nào? Này Hiền giả, có phải, này Ānanda, trước mặt Thế Tôn và giữa chúng Tỷ-kheo Tăng, Hiền giả được Thế Tôn đề cập như sau: “Và Ta, này các Tỷ-kheo, với sự đoạn tận các lậu hoặc, ngay trong hiện tại, tự mình với thắng trí, Ta chứng ngộ, chứng đạt và an trú vô lậu tâm giải thoát, tuệ giải thoát. Này các Tỷ-kheo, Ānanda cũng vậy, với sự đoạn tận các lậu hoặc, ngay trong hiện tại, tự mình với thắng trí chứng ngộ, chứng đạt và an trú vô lậu tâm giải thoát, tuệ giải thoát”?

—Thưa Tôn giả, không phải vậy.

—Chính ta, này Hiền giả, trước mặt Thế Tôn và giữa chúng Tỷ-kheo, được Thế Tôn đề cập như sau: “Này các Tỷ-kheo, với sự đoạn tận các lậu hoặc, ngay trong hiện tại tự mình với thắng trí, Ta chứng ngộ, chứng đạt và an trú vô lậu tâm giải thoát, tuệ giải thoát. Này các Tỷ-kheo, Kassapa cũng vậy, với sự đoạn tận các lậu hoặc, ngay trong hiện tại tự mình với thắng trí chứng ngộ, chứng đạt và an trú vô lậu tâm giải thoát, tuệ giải thoát”.

Này Hiền giả, ai nghĩ rằng có thể che đậy sáu thắng trí của ta được, thời không khác gì họ nghĩ rằng có thể lấy một lá cây ta-la mà che đậy một con voi lớn đến bảy hay tám khuỷu tay rưởi bề cao.

Nhưng Tỷ-kheo-ni Thullatissā đã từ bỏ đời sống Phạm hạnh.



Phiên bản thư viện demo v4.5 [Tipiṭaka Tiếng Việt] Theravada