447.Ở thành phố Mantāvatī, Sumedhā, người con gái của hoàng hậu chánh cung của đc vua Koñca, đã có đưc đức tin nhờ vào những vị đang thực hành Giáo Pháp.

448.Là người có giới hạnh, nói năng khôn khéo, có sự nghe nhiều, đã được dạy dỗ về lời dạy của đức Phật, Sumedhā đã đi đến gặp mẹ cha rồi nói với cả hai người rằng: ‘Xin mẹ cha hãy lắng nghe.

449.Con thích thú Niết Bàn. Việc đi đến các hữu là không trường tồn, dầu là thuộc về cõi Trời đi nữa; vậy thì có gì với các dục rỗng không, ít khoái lạc, nhiều tai họa?

450.Các dục là cay đng, ví như nc độc của rắn, khiến những kẻ ngu bị mê mẩn. Chúng bị đa vào địa ngục thời gian dài, bị hành hạ, khổ đau.

451.Có việc làm ác, có trí xấu xa, thường xuyên không thu thúc về thân, về khẩu, và về ý, (những kẻ ngu) sầu khổ ở đọa xứ.

452.Những kẻ ngu ấy có ác tuệ, không có ý tứ, bị giam hãm bởi (tham ái) nguyên nhân của Khổ; trong khi (có ngưi) đang thuyết giảng, chúng không hiểu, không giác ngộ các Chân Lý cao thượng.

453.Thưa mẹ, những kẻ thích thú việc đi đến các hữu, mong mỏi việc sanh về các cõi Trời, những kẻ ấy là nhiều hơn, chúng không biết các Chân Lý đã được thuyết giảng bởi đức Phật cao quý.

454.Khi việc đi đến các hữu là vô thường, việc sanh về thậm chí ở các cõi Trời cũng là không trường tồn; những kẻ ngu không sợ hãi đối với việc bị sanh lần này lần khác.

455.Bốn đọa xứ và hai cảnh giới tái sanh (người và Trời) đưc đt đến bằng cách này hay cách khác; còn đối với những kẻ đã đi đến đọa xứ thì không có việc xuất gia ở các địa ngục.

456.Cả hai (mẹ và cha) hãy cho phép con xuất gia theo lời giáo huấn của đấng Thập Lực. Ít bị bận rộn, con sẽ cố gắng cho việc dứt bỏ sự sanh và sự chết.

457.Có gì với việc đi đến các hữu, với việc được vui thú, với tội lỗi của thân xác không có thực chất? Vì sự diệt tận đối với tham ái ở các hữu, xin mẹ cha hãy cho phép, con sẽ xuất gia.

458.Sự hiện khởi của chư Phật, lúc không phải thời cơ đã được tránh khỏi, thời cơ đã đt được, con sẽ không làm hư hỏng các giới và Phạm hạnh cho đến trọn đời.

459.Khi nào còn là người tại gia thì con sẽ không đng đến thức ăn, con dứt khoát sẽ đi đến cái chết.’ Sumedhā nói với mẹ cha như vậy.

460.Bị khổ đau, m khóc, và người cha của cô gái đã bị tác động toàn diện, (hai người) cố gắng thuyết phục đa con đã nằm dài xuống nền nhà ở sân thượng của tòa lâu đài.

461.‘Này con, hãy đứng dậy. Việc gì phải bị sầu muộn? Con đã được gả về thành phố Vāraavatī. Đức vua Aṇīkadatta đp trai. Con đã được gả cho ông ta.

462.Con sẽ là hoàng hậu chánh cung, là vợ của đức vua Aṇīkadatta. Này con, các giới cấm, sự thực hành Phạm hạnh, sự xuất gia là các việc khó làm.

463. vương quốc, có uy lực, tài sản, vương quyền, của cải, sung sướng. Con còn trẻ, con hãy thọ hưởng sự hưởng thụ các dục. Này con, hãy để cho cuộc hôn lễ của con được tiến hành.’

464.Khi ấy, Sumedhā nói với mẹ cha rằng: ‘Đừng có những việc như thế. Việc đi đến các hữu là không có thực chất. Đối với con, hoặc là sẽ có sự xuất gia, hoặc là cái chết, và dứt khoát không có đám cưới.

465.Giống như loài dòi, con bám víu vào cái thân hôi thối, không trong sạch, có mùi mồ hôi, cái thây ma đáng kinh sợ, cái túi da có sự rò rỉ thường xuyên, chứa đầy các chất dơ.

466.Nó tựa như cái gì? Trong khi con biết rằng xác thân là ghê tởm, bị lấm lem những thịt và máu, chỗ trú của nhiều loại dòi, bữa ăn của những con chim, tại sao thân xác lại đưc đem cho?

467.Không bao lâu, khi tâm thức đã lìa, thân xác đưc đem ra bãi tha ma. Các thân quyến, trong khi ghê tởm, quăng bỏ nó giống như khúc gỗ mục.

468.Sau khi đã quăng bỏ thân xác ấy ở bãi tha ma làm bữa ăn cho những loài thú khác, mẹ và cha ruột, trong khi ghê tởm, tắm rửa; còn nhóm người công chúng thì sao?

469.Họ bị dính mắc ở cái thân xác, không có thực chất, sự tập hợp các xương và những sợi gân, cái thân hôi thối, chứa đy nước miếng, nước mắt, phân, và nước tiểu.

470.Người nào, sau khi mổ xẻ thân ấy, có thể làm cho cái phần bên trong ra bên ngoài, ngay cả người mẹ ruột, trong khi không chịu nổi mùi của nó, cũng sẽ ghê tởm.

471.Trong khi suy xét đúng đường lối về (năm) un, (mười tám) giới, (mười hai) xứ là pháp tạo tác, là nền tảng của sự sanh, là khổ đau, tại sao con còn mong muốn đám cưới?

472.Mỗi một ngày ba trăm cây giáo mới tinh rơi xuống ở thân thể, và dẫu cho sự hành hạ trong một trăm năm cũng vẫn là tốt hơn, nếu như vy mà có được sự cạn kiệt của khổ đau.

473.Người nào có thể chấp nhận sự hành hạ sau khi nhận thức lời nói như vầy của bậc Đo Sư: ‘Trong khi nhng người ấy đang bị giết chết lần này lần khác, luân hồi là dài đối với họ.’

474.Các sự hành hạ vô số kể được nhìn thấy ở chư Thiên, ở nhân loại, ở chủng loại các loài thú, ở tập thể của A-tu-la, ở các loài ngạ quỷ, và ở các địa ngục.

475.Có nhiều sự hành hạ ở các địa ngục dành cho ngưi đã đi đến đọa xứ, dành cho ngưi đang bị áp chế, thậm chí không có sự ẩn náu ở giữa chư Thiên, không có gì vượt trội sự an lạc của Niết Bàn.

476.Những người nào gắn bó với lời giáo huấn của đấng Thập Lực, ít bị bận rộn, cố gắng cho việc dứt bỏ sự sanh và sự chết, những người ấy đt được Niết Bàn.

477.Thưa cha, ngay hôm nay con sẽ xuất ly. Việc gì với các của cải không có thực chất? Các dục đã bị con nhàm chán; chúng được xem là vật đã được mửa ra, đã được làm thành thân cây thốt nốt (bị cụt ngọn).’

478.Nàng ấy đã nói như thế với cha. Và Aṇīkadatta, người mà nàng ấy được gả cho, đã đi đến theo nghi thức của việc cưới hỏi, vào thời đim đã đưc xác định là lễ cưới.

479.Khi ấy, Sumedhā, sau khi ct đt đu tóc đen nhánh, dầy, rậm, mềm mại bằng con dao, sau đó đã đóng lại (cánh cửa) tòa lâu đài, ri đã thể nhập tầng thiền thứ nhất.

480.Và nàng đã thể nhập thiền ấy. Rồi Aṇīkadatta đã đi đến thành phố. Ngay tại tòa lâu đài, Sumedhā (đã) khéo tu tập tưởng về vô thường.

481.(Trong lúc) Sumedhā bận chú tâm, Aṇīkadatta đã vội vã bước lên, với thân hình đưc trang điểm với ngọc ma-ni và vàng, với tay chắp lại, thỉnh cầu Sumedhā rằng:

482.‘Ở vương quốc, có uy lực, tài sản, vương quyền, của cải, sung sướng. Nàng còn trẻ, nàng hãy thọ hưởng sự hưởng thụ các dục. Sự khoái lạc của các dục ở thế gian là rất khó đt được.

483.Vương quc đã được trao cho nàng. Nàng hãy thọ hưởng các của cải, hãy bố thí các vật thí. Nàng chớ có ủ dột, (khiến) mẹ cha của nàng khổ đau.’

484.Sumedhā, không có mục đích với các dục, có sự si mê đã xa lìa, nói điều này với Aṇīkadatta: ‘Chớ thích thú ở các dục. Chàng hãy nhìn thấy điều bất lợi ở các dục.

485.Đc vua Mandhātā của bốn châu lục đã đng đầu trong số những người thọ hưởng dục lạc, (nhưng vn) không được thỏa mãn, đã chết đi, và các điều mong muốn của vị ấy đã không đưc đy đủ.

486.Thần mưa có th làm cơn mưa bảy loại châu báu ở xung quanh khắp cả mưi phương, nhưng không có sự thỏa mãn của các dục. Loài người chết đi, thật sự không được thỏa mãn.

487.Các dục ví như dao và thớt; các dục ví như đầu rắn đc; chúng thiêu đt ví như các cây đuốc cỏ; chúng tương t như b xương.

488.Các dục là không thường còn, không bền vững, nhiều khổ đau, là những chất độc lớn lao, tựa như cục sắt đã được nung nóng, là gốc rễ của tội lỗi, có kết quả khổ đau.

489.Các dục ví như trái trên cây; ví như miếng thịt, khổ đau; ví như giấc chiêm bao, lừa bịp; các dục ví như vt vay mượn.

490.Các dục ví như gươm giáo, là bệnh tật, mụt nhọt, tội lỗi, khốn khổ, tương tự hố than cháy rực, là gốc rễ của tội lỗi, sợ hãi, giết chóc.

491.Các dục có nhiều khổ đau như vy, đã đưc nói đến là các chướng ngại. Quý vị hãy đi đi, bản thân tôi không có sự tin tưởng ở việc đi đến các hữu.

492.Người khác sẽ làm gì cho tôi khi cái đầu của bản thân tôi đang b thiêu đốt? Khi sự sống và chết đuổi theo sau, thì nên cố gắng cho việc diệt trừ đối với điều ấy.’

493.Sau khi mở ra cánh cửa, nhìn thấy mẹ cha và Aṇīkadatta ngồi ở nền nhà đang khóc than, tôi đã nói điều này:

494.‘Luân hồi là dài lâu cho những kẻ ngu và những kẻ đang khóc lóc lần này lần khác về việc không có khởi đầu và chấm dứt, về cái chết của cha, về sự chết chóc của anh em trai, và về sự chết chóc của bản thân.

495.Hãy nhớ rằng nước mắt, sữa, máu, sự luân hồi không có khởi đầu và chấm dứt. Hãy nhớ rằng sự chồng chất của những khúc xương ca các chúng sanh đang luân hồi.

496.Hãy nhớ rằng nước mắt, sữa, máu đã được so sánh với bốn biển. Hãy nhớ rằng sự chồng chất của những khúc xương trong mt đại kiếp là sánh bằng núi Vipula.

497.Quả địa cầu, xứ Jambudīpa, được so sánh với kẻ đang luân hồi (ở sự luân hồi) không có khởi đầu và chấm dứt; (trái đt được làm thành) những viên bi nhỏ như hạt táo vẫn không sánh bằng những lần đã lần lượt làm mẹ.

498.Hãy nhớ rằng cỏ, củi, cành, lá được so sánh với sự (luân hồi) không có khởi đầu và chấm dứt. (Cắt cỏ, củi, cành, lá thành) những mẩu bốn ngón tay vẫn không sánh bằng những lần đã lần lượt làm cha.

499.Hãy nhớ rằng con rùa mù và lỗ hổng ở cái ách (trôi dạt) ở biển đông sang phía tây. Và hãy nhớ rằng sự gặp gỡ của nó là ví dụ về việc đt được bản thể nhân loại.

500.Hãy nhớ rằng hình thể của xác thân tồi tệ, không có thực chất, ví như cc bong bóng nước. Hãy nhìn thấy các uẩn là vô thường. Hãy nhớ rằng các địa ngục là có nhiều tai họa.

501.Hãy nhớ về những kiếp sống kia kiếp sống nọ đang làm phát triển bãi tha ma lúc này lúc khác. Hãy nhớ đến những nỗi sợ hãi về cá sấu (sự tham ăn). Hãy nhớ về bốn Chân Lý.

502.Trong khi Bất Tử đang được biết đến, chàng được cái gì với việc uống vào năm vt cay đắng? Bởi vì mọi sự thích thú ở các dục còn đng cay hơn năm vt cay đắng nữa.

503.Trong khi sự Bất Tử đang được biết đến, chàng được cái gì với các dục, là những thứ có sự nóng nực? Bởi vì mọi sự thích thú ở các dục là bị cháy rực, bị sôi sục, bị rung chuyển, bị thiêu đốt.

504.Trong khi là không có kẻ thù, chàng được cái gì với các dục, là những thứ có nhiều kẻ thù? Các dục là có nhiều kẻ thù, ví dụ như các vị vua, ngọn lửa, trộm cưp, nưc (lũ), ngưi không yêu thương, v.v...

505.Trong khi sự Giải Thoát đang được biết đến, chàng được cái gì với các dục, ở những thứ ấy có sự giết hại và trói buộc. Bởi vì do dục không tốt đẹp trong số các dục, chúng sanh chịu đựng những khổ đau do sự giết hại và trói buộc.

506.Những cây đuốc cỏ, đã được thắp sáng, đốt nóng những ngưi đang nắm lấy và không bao giờ chịu buông ra. Các dục, quả giống như cây đuc, đốt nóng những người không chịu buông ra.

507.Chớ từ bỏ sự an lạc lớn lao vì nguyên nhân khoái lạc ít ỏi của các dục. Chớ như con cá Puthuloma đã nuốt vào lưỡi câu về sau bị khốn khổ.

508.Chỉ còn cách hãy hết lòng kiềm chế đối với các dục, tựa như con chó bị trói buộc vào sợi xích. Quả vậy, các dục sẽ đối xử với ngươi, ta như hng người hạ liệt bị đói s đối xử với con chó.

509.Bị vướng vào ở các dục, chàng sẽ chịu đựng nhiều khổ đau vô hn lượng và buồn bực ở tâm trí. Hãy buông bỏ các dục không được bền lâu.

510.Trong khi sự không già đang được biết đến, chàng được cái gì với các dục, ở những thứ ấy có sự già. Ở khắp mọi nơi, tất cả các sự sanh ra đều bị nắm giữ bởi sự chết và bệnh tật.

511.Cái này là không già, cái này là không chết, cái này là vị thế không già không chết, không sầu muộn, không kẻ thù, không chướng ngại, không lầm lỗi, không sợ hãi, khỏi bị nóng nảy.

512.Sự Bất Tử này đã được chứng đắc bởi nhiều người. Ngay cả hôm nay, cái này vẫn còn được chứng ngộ (đối với) người nào áp dụng đúng đường lối, và không thể được với người không cố gắng.’

513.Trong khi không đt được sự thích thú ở việc đi đến các sự tạo tác, Sumedhā nói như vậy. Trong khi thuyết phục Aṇīkadatta, Sumedhā đã ném nắm tóc xuống nền nhà.

514.Sau khi đứng lên, Aṇīkadatta ấy đã chắp tay thỉnh cầu mẹ cha của nàng rằng: ‘Quý vị hãy cho phép Sumedhā được xuất gia; nàng sẽ có sự nhìn thấy Giải Thoát và Chân Lý.’

515.Được mẹ cha cho phép, bị sợ hãi vì sự sầu muộn và lo sợ (luân hồi), nàng đã xuất gia. Trong khi còn là vị ni tu tập sự, sáu Thắng Trí và quả vị cao cả đã được (nàng) chứng ngộ.

516.Niết Bàn kỳ diệu, phi thường ấy đã thuộc về người con gái của đc vua, như đã được nàng nói rõ về việc làm trong đời sống thuộc thời quá khứ ở vào thời điểm cuối cùng.

517.Vào thời đức Thế Tôn Koṇāgamana, chúng tôi gồm ba người bạn gái[15] đã dâng cúng trú xá ở tại chỗ cư ngụ mới là tu viện của hội chúng.

518.Chúng tôi đã tái sanh mười lần, trăm lần, ngàn lần, mười ngàn lần ở các cõi trời, thì ở cõi ngưi có điều gì để nói.

519.Chúng tôi đã có đại thần lực ở cõi trời, thì ở cõi ngưi có điều gì đ nói. Tôi đã là hoàng hậu, là báu vật nữ nhân trong số bảy loại báu vật.

520.Nhân ấy, nguồn sanh khởi ấy, căn nguyên ấy, sự chăm chỉ ấy trong Giáo Pháp, sự liên kết đầu tiên ấy, việc Niết Bàn ấy là do sự thỏa thích trong Giáo Pháp.[16]

521.Những ngưi nào tin tưởng vào lời nói của bậc Trí Tuệ Cao Thượng thì thực hành như vậy, họ nhàm chán việc đi đến các hữu, sau khi nhàm chán họ lìa khỏi ái luyến.”

Trưởng lão ni Sumedhā đã nói những lời kệ như thế.

Nhóm Lớn được chấm dứt.

*****

“Tất cả các câu kệ ấy là năm trăm hai mươi mốt. Các trưởng lão ni là một trăm lẻ một,[17]tất cả các vị ni ấy có sự cạn kiệt của các lậu hoặc.”

TRƯỞNG LÃO NI KỆ ĐƯC ĐY Đ.

--ooOoo--

[1] Hai câu kệ 227, 228 tương tợ như câu kệ 70cd và câu kệ 71.

[2] Chú Giải cho biết rằng lời nói này là của Ma Vương (ThigA., 191).

[3] Hai câu kệ 234, 235 giống hai câu kệ 58, 59.

[4] Các câu kệ 236-239 tương tự như các câu kệ 1293-1296 của Therī Apadānāpāḷi - Thánh Nhân Ký Sựtập 3 (TTPV tập 41, trang 213).

[5] Đây là cuộc đối thoại của Rohiṇī và người cha (ThigA., 206).

[6] Các câu kệ 288 - 290 tương tự các câu kệ 248 - 251.

[7] Sau khi quán xét về sự thành tựu của bản thân, trưởng lão ni Cāpā đã thốt lên lời cảm thán thuật lại cuộc trao đổi giữa nàng với chồng là Upaka lúc hai người vẫn còn ở đời sống tại gia. Upaka là vị đạo sĩ lõa thể mà đức Phật đã gặp trên đường đi đến Migadāya để hóa độ năm vị đạo sĩ Koṇḍañña. Sau khi từ giã đức Phật, Upaka đã gặp và say đắm Cāpā. Hai người nên duyên vợ chồng và có một đứa con trai. Sau khi Upaka xuất gia theo đức Phật, Cāpā đã gởi con cho ông ngoại rồi cũng xuất gia trở thành tỳ khưu ni và đã chứng đắc quả vị A-la-hán. Trong câu chuyện trên, Upaka được vợ gọi là Kāḷa, màu đen, vì màu da của Upaka sạm đen (ThigA., 209-215). Hai câu kệ 291 và 292 là lời của Upaka nói về bản thân.

[8] Câu kệ 310 giống câu kệ 186.

[9] Chú Giải ghi rằng Vāseṭṭhī là một vị tỳ khưu ni trưởng lão (ThigA., 216). Ở đây, được dịch theo nghĩa là một nữ Bà-la-môn, vợ của người đàn ông Sujāta này.

[10] Hai dòng cuối của câu kệ 320 giống câu kệ 186.

[11] Đây là lời của nữ Bà-la-môn, vợ của Bà-la-môn Sujāta và là mẹ của Sundarī, nói với người đánh xe. Bình bát đầy (puṇṇapattaṃ) là vật biếu cho người đem đến tin vui (ThigA., 234).

[12] Việc này tức là việc thọ nhận vàng bạc (ND).

[13] Ba câu kệ 361 - 363 là lời của đức Phật, câu kệ 364 là của các vị kết tập (ThigA., 229).

[14] Tên một vườn hoa ở cõi trời Đạo Lợi.

[15] Là Sumedhā và hai người bạn gái là Dhanañjanī và Khemā (ThigA., 267).

[16] Bốn câu kệ 517 - 520 được trích từ Therī-Apadānapāḷi - Thánh Nhân Ký Sự tập 3 (TTPV 41, các trang 02-05).

[17] Con số đếm được chỉ là 73. Nếu tính luôn 30 vị ni đã được trưởng lão ni Paṭācārā chỉ dạy và 500 vị ni ở Nhóm Sáu thì tổng số sẽ là 601 vị trưởng lão ni (ND).



Phiên bản thư viện demo v4.5 [Tipiṭaka Tiếng Việt] Theravada