399.Ở thành phố có tên của loài hoa Pāṭaliputta, nơi trong lành nhất ở trên trái đất, có hai vị tỳ khưu ni có đức hạnh, thuộc dòng dõi gia tộc Sakya.
400.Trong số đó, một vị là Isidāsī, và vị thứ nhì là trưởng lão ni Bodhī; (cả hai) đầy đủ giới hạnh, thích thú việc tham thiền về các loại thiền, có sự nghe nhiều, có các phiền não đã được giũ bỏ.
401.Hai vị ni ấy, sau khi đi khất thực, sau khi hoàn tất bữa ăn, có các bình bát đã được rửa, ngồi xuống thoải mái ở nơi thanh vắng, đã nói lên những lời này:
402.‘Này chị Isidāsī, chị là dễ mến, thậm chí tuổi trẻ của chị cũng chưa phai tàn, sau khi nhìn thấy điều gì xấu xa (ở cuộc sống tại gia) khiến chị gắn bó với việc xuất ly?’
403.Trong khi được hỏi như vậy ở nơi thanh vắng, vị ni Isidāsī ấy, thiện xảo về việc thuyết giảng Giáo Pháp, đã nói lời nói rằng: “Này Bodhī, hãy lắng nghe tôi đã được xuất gia như thế nào.
404.Ở tại kinh thành Ujjenī, cha của tôi là thương buôn, thu thúc trong giới hạnh. Tôi là con gái độc nhất, đáng yêu, hợp ý, được cảm tình của ông ấy.
405.Rồi những người hỏi cưới tôi thuộc gia tộc thượng lưu từ Sāketa đã đi đến, người thương buôn có nhiều châu ngọc (đã phái họ đi đến); cha đã cho tôi làm con dâu của ông ấy.
406.Đối với mẹ chồng và cha chồng, buổi tối, buổi sáng, sau khi đi đến gặp họ, tôi cúi đầu thể hiện sự tôn kính, rồi đảnh lễ các bàn chân theo như tôi đã được chỉ dạy.
407.Sau khi nhìn thấy các chị em gái, các anh em trai, người tùy tùng của chồng tôi, ngay cả người yêu quý duy nhất ấy, tôi run rẩy trao cho ghế ngồi.
408.Với cơm ăn, nước uống, thức nhai, và vật được tích trữ ở tại nơi ấy, tôi chiều chuộng, đem lại, và trao vật thích hợp cho từng người.
409.Sau khi thức dậy đúng giờ, tôi đi đến gian nhà, rửa sạch các bàn tay bàn chân ở ngưỡng cửa, rồi tôi đi đến bên chồng, với tay chắp lại.
410.Sau khi cầm lấy cái lược, đồ trang điểm, thuốc thoa, và cái gương nhỏ, tôi tự chính mình trang điểm cho chồng tựa như người nữ tỳ.
411.Tôi tự chính mình nấu cơm, tự chính mình rửa bát, tôi luôn luôn phục vụ người chồng tựa như người mẹ phục vụ đứa con trai duy nhất.
412.Người chồng bực bội đối với tôi, (trong khi tôi là) người đã thể hiện sự hy sinh, một mực yêu (chồng), như là người hầu gái, có ngã mạn đã được đè nén, là người dậy sớm, không biếng nhác, có giới hạnh như thế ấy.
413.Anh ta nói với mẹ và cha rằng: ‘Con sẽ xin phép và con sẽ ra đi. Để sống với nhau, con sẽ không sống với Isidāsī trong cùng một căn nhà.’
414.‘Này con trai, chớ nói như vậy. Isidāsī sáng suốt, là người dậy sớm, không biếng nhác. Này con trai, cô ta không làm vừa ý con điều gì?’
415.‘Cô ta không gây hại cho con bất cứ điều gì, nhưng con sẽ không sống chung với Isidāsī. Đối với con, cô ta thật là đáng ghét. Đối với con, là đủ rồi. Con sẽ không xin phép và con sẽ ra đi.’
416.Sau khi lắng nghe lời nói ấy của con trai, mẹ chồng và cha chồng đã hỏi tôi rằng: ‘Con đã phạm tội lỗi gì? Hãy bình tĩnh nói đúng theo sự tình.’
417.‘Con cũng đã không phạm tội lỗi nào cả, con cũng không gây hại, con không nói lời hỗn xược. Còn có thể làm điều gì khi chồng ghét bỏ con?’
418.Họ, với tâm không vui, bị chồng chất khổ đau, đã đưa tôi về lại nhà của cha ruột (nói rằng): ‘Trong khi bảo vệ đứa con trai, chúng tôi tự đánh mất nữ thần Lakkhī (May Mắn) xinh đẹp.’
419.Rồi cha đã cho tôi vào căn nhà của một người giàu có thuộc gia tộc thứ nhì, với của hồi môn bằng một nửa so với của hồi môn mà người thương buôn (trước đây) đã tiếp nhận tôi.
420.Tôi cũng đã sống trong căn nhà của ông ấy được một tháng, rồi ông ấy cũng đã đuổi tôi đi, trong khi tôi phục vụ tựa như nữ tỳ, (và tôi) được đầy đủ giới hạnh, không phải là kẻ xấu xa.
421.Và cha tôi nói với kẻ đang đi đó đây vì việc khất thực, là người huấn luyện (kẻ khác), và là người đã được rèn luyện: ‘Hãy trở thành con rể của ta. Hãy quăng bỏ mảnh vải rách và cái tô xin ăn.’
422.Người ấy cũng thế, sau khi sống (chung) nửa tháng, thì nói với cha rằng: ‘Hãy trao cho con mảnh vải rách, cái tô xin ăn, và cái chậu, con cũng sẽ đi khất thực trở lại.’
423.Rồi cha, mẹ, và toàn bộ nhóm thân quyến của tôi nói với người ấy rằng: ‘Ở đây, cái gì chưa được con hài lòng? Hãy nói mau đi, vợ con sẽ làm điều ấy cho con.’
424.Được bảo như vậy, người ấy nói rằng: ‘Nếu bản thân con có khả năng (tự quyết định), đối với con là đủ rồi. Để sống với nhau, con sẽ không sống với Isidāsī trong cùng một căn nhà.’
425.Được tự do, người ấy đã ra đi. Còn tôi, đơn độc một mình, suy nghĩ rằng: ‘Ta sẽ không xin phép, ta sẽ ra đi để chết hoặc ta sẽ xuất gia.’
426.Rồi ni sư Jinadattā, vị ni rành rẽ về Luật, có sự nghe nhiều, đầy đủ giới hạnh, trong khi đi khất thực, đã đi đến nhà của cha.
427.Sau khi nhìn thấy vị ni ấy, tôi đã đứng dậy và sắp xếp cái ghế của chúng tôi cho vị ni ấy. Khi vị ni ấy đã ngồi xuống, tôi đã đảnh lễ các bàn chân của người và đã dâng cúng vật thực.
428.Sau khi làm cho (vị ni ấy) được thỏa mãn với cơm ăn, nước uống, thức nhai, và vật được tích trữ ở tại nơi ấy, tôi đã nói rằng: ‘Thưa ni sư, con muốn xuất gia.’
429.Rồi cha nói với tôi rằng: ‘Này con, con hãy thực hành Phạm hạnh ngay tại đây (ở căn nhà này). Con hãy làm thỏa mãn các vị Sa-môn và các vị có hai lần sanh (Bà-la-môn) với cơm ăn và nước uống.
430.Khi ấy, tôi chắp hai bàn tay lại, khóc lóc, nói với cha rằng: Bởi vì việc ác đã được tạo ra bởi con, con sẽ thủ tiêu nghiệp ấy.’
431.Rồi cha nói với tôi rằng: ‘Con hãy đạt lấy quả vị Giác Ngộ và Giáo Pháp cao cả. Con hãy thành tựu Niết Bàn mà bậc Tối Thượng của loài người đã chứng đắc.’
432.Sau khi đảnh lễ mẹ, cha, và toàn bộ nhóm thân quyến, tôi đã xuất gia; qua bảy ngày tôi đã chạm đến ba Minh.
433.Tôi biết bảy kiếp sống của mình; đây là quả (của nghiệp) và quả thành tựu của việc ấy (bị chồng hất hủi). Tôi sẽ thuật lại việc ấy cho cô. Cô hãy nhất tâm lắng nghe chuyện ấy.
434.Ở thành phố Erakaccha, tôi đã là người thợ vàng, có nhiều tài sản. Bị đắm đuối với sự say mê của tuổi trẻ, tôi đây đã gần gũi với vợ của kẻ khác.
435.Sau khi chết đi từ nơi ấy, tôi đây đã bị nung nấu ở địa ngục thời gian dài. Và sau khi bị nung nấu, từ nơi đó tôi đã được sanh lên và đã nhập thai vào bụng của con khỉ cái.
436.Khi tôi được bảy ngày tuổi, con khỉ đực khổng lồ chúa bầy đã thiến tôi. Việc ấy là quả của nghiệp của tôi đây, bởi vì đã đi đến với vợ của kẻ khác.
437.Sau khi chết đi từ nơi ấy, sau khi lìa đời ở khu rừng Sindhava, tôi đã hạ sanh vào bụng của con dê cái chột và què.
438.Sau khi đã chăm sóc những đứa con trong mười hai năm, tôi đã bị thiến, bị khổ sở vì dòi (ăn), không còn sức khỏe, bởi vì đã đi đến với vợ của kẻ khác.
439.Sau khi chết đi từ nơi ấy, tôi đây đã được sanh ra bởi con bò cái của người buôn trâu bò. Là con bê, có màu đỏ hung như cánh kiến, tôi đã bị thiến khi được mười hai tháng.
440.Tôi đã kéo cày, và gồng gánh cỗ xe kéo, mù lòa, bị khổ sở, không còn sức khỏe, bởi vì đã đi đến với vợ của kẻ khác.
441.Sau khi chết đi từ nơi ấy, tôi đây đã được sanh ra trong bụng của người nữ tỳ ở đường phố; tôi không phải là nữ cũng không phải là nam, bởi vì đã đi đến với vợ của kẻ khác.
442.Vào năm ba mươi, tôi đã chết đi và đã được sanh làm đứa bé gái ở gia tộc của người kéo xe, khốn khó, có ít của cải, chịu nhiều áp chế từ những người giàu có.
443.Sau đó, do số tiền lời đã được tích lũy quá nhiều, người điều khiển đoàn xe đã lôi kéo tôi đây, đang than khóc, sau khi đã cưỡng bức tôi lìa khỏi căn nhà.
444.Rồi vào năm tôi được mười sáu tuổi, sau khi nhìn thấy tôi đã đạt tuổi thành niên, trở thành thiếu nữ, người con trai của ông ấy tên là Giridāsa đã chọn tôi làm vợ.
445.Anh ta còn có người vợ khác nữa, (cô ấy) có giới hạnh, có đức hạnh, và có danh tiếng. Là người yêu thương chồng, tôi đã gây thù oán với cô ấy.
446.Việc ấy là quả của nghiệp của tôi đây, là việc họ đã ruồng rẫy tôi rồi ra đi, trong khi tôi phục vụ tựa như nữ tỳ. Dầu vậy, đối với điều ấy, tôi đã thực hiện sự chấm dứt.”
Trưởng lão ni Isidāsī đã nói những lời kệ như thế.
Nhóm Bốn Mươi được chấm dứt.
--ooOoo--
Phiên bản thư viện demo v4.5 [Tipiṭaka Tiếng Việt] Theravada