13-1. Jhāyiṃ virajamāsīnaṃ (iccāyasmā udayo) katakiccaṃ anāsavaṃ pāraguṃ sabbadhammānaṃ atthi pañhena āgamaṃ aññāvimokkhaṃ pabrūhi avijjāya pabhedanaṃ.  

13-1. (Tôn giả Udaya nói rằng:) “Với ý định (hỏi) câu hỏi, con đã đi đến bậc có thiền chứng, không còn bụi bặm, đang ngồi, bậc đã làm xong phận sự, không còn lậu hoặc, đã đi đến bờ kia của tất cả các pháp, xin ngài hãy nói về sự giải thoát do trí giác ngộ, về sự phá vỡ vô minh. Udaya:

1105. Tôn giả U-da-ya:
Con đến với câu hỏi,
Về tất cả mọi pháp,
Ðể hỏi bậc tu thiền,
Bậc an tọa không bụi;
Trách nhiệm đã làm xong,
Bậc không có lậu hoặc,
Ðã đạt bờ bên kia,
Hãy nói trí giải thoát
Ðể phá hoại vô minh.

13-2. Pahānaṃ kāmacchandānaṃ (udayāti bhagavā) domanassāna cūbhayaṃ thīnassa ca panūdanaṃ kukkuccānaṃ nivāraṇaṃ. 

13-2. (Đức Thế Tôn nói: “Này Udaya,) sự dứt bỏ đối với những mong muốn về dục và những nỗi ưu phiền, cả hai loại, việc xua đi sự dã dượi, và việc che lấp các trạng thái hối hận.

Thế Tôn:

1106. Ðây lời Thế Tôn nói:
Hỡi này U-đa-ya,
Ðoạn ước muốn, dục vọng,
Và cả hai loại ưu,
Và trừ bỏ hôn trầm,
Ngăn chận mọi hối hận.

13-3. Upekkhāsatisaṃsuddhaṃ dhammatakkapurejavaṃ aññāvimokkhaṃ pabrūmi avijjāya pabhedanaṃ. 

13-3. Ta nói về sự giải thoát do trí giác ngộ, về sự phá vỡ vô minh có xả và niệm hoàn toàn trong sạch, có sự suy tầm đúng pháp đi trước.”

1107. Ta nói trí giải thoát,
Ðể phá hoại vô minh,
Thanh tịnh nhờ xả niệm,
Suy tư pháp đi trước.

13-4. Kiṃ su saṃyojano loko (iccāyasmā udayo) kiṃ su tassa vicāraṇaṃ kissassa vippahānena nibbānamiti vuccati.

13-4. (Tôn giả Udaya nói rằng:) “Thế gian có cái gì là sự ràng buộc? Cái gì, đối với nó, là phương tiện xem xét? Do lìa bỏ cái gì được gọi là ‘Niết Bàn’?”

Udaya:
1108. Ðời cái gì trói buộc,
Cái gì, đời vận hành?
Do đoạn được cái gì,
Ðược gọi là Niết-bàn?

13-5. Nandisaṃyojano loko (udayāti bhagavā) vitakkassa vicāraṇā taṇhāya vippahānena nibbānaṃ iti vuccati.

13-5. (Đức Thế Tôn nói: “Này Udaya,) Thế gian có vui thích là sự ràng buộc. Suy tầm, đối với nó, là phương tiện xem xét. Do lìa bỏ tham ái được gọi là ‘Niết Bàn.’”

Thế Tôn:

1109. Ðời bị hỷ trói buộc,
Suy tầm là sở hành,
Do đoạn được khát ái,
Ðược gọi là Niết-bàn.

13-6. Kathaṃ satassa carato (iccāyasmā udayo) viññāṇaṃ uparujjhati bhagavantaṃ puṭṭhumāgamma taṃ suṇoma vaco tava.

13-6. (Tôn giả Udaya nói rằng:) “Như thế nào đối với vị có niệm, trong lúc thực hành, thức (của vị ấy) được đình chỉ? Chúng con đã đi đến để hỏi đức Thế Tôn, hãy cho chúng con nghe lời nói ấy của Ngài.”Udaya:

1110. Người sở hành chánh niệm,
Thức được diệt thế nào?
Con đến hỏi Thế Tôn,
Nghe lời Thế Tôn nói.

13-7. Ajjhattaṃ ca bahiddhā ca vedanaṃ nābhinandato evaṃ satassa carato viññāṇaṃ uparujjhatī ”ti.

13-7. “Đối với vị không thích thú cảm thọ ở nội phần và ngoại phần, đối với vị có niệm như vậy, trong lúc thực hành, thức (của vị ấy) được đình chỉ.”Thế Tôn:
1111. Ai không có hoan hỷ,
Với nội và ngoại thọ,
Sở hành chánh niệm vậy,
Thức đạt được hoại diệt.

Udayamāṇavapucchā niṭṭhitā.

Dứt Câu Hỏi Của Thanh Niên Udaya.



Phiên bản thư viện demo v4.5 [Tipiṭaka Tiếng Việt] Theravada