11-1. Sutvānahaṃ vīramakāmakāmiṃ (iccāyasmā jātukaṇṇī ) oghātigaṃ puṭṭhumakāmamāgamaṃ santipadaṃ brūhi sahajanetta yathātacchaṃ bhagavā brūhi metaṃ.

11-1. (Tôn giả Jatukaṇṇī nói rằng:) “Thưa bậc anh hùng, sau khi con nghe về vị không có ham muốn các dục, con đã đi đến để hỏi vị đã vượt qua dòng lũ, không có ham muốn. Thưa bậc có nhãn quan (trí Toàn Giác) đã được đồng sanh, xin ngài hãy nói về vị thế an tịnh. Thưa đức Thế Tôn, xin ngài hãy nói cho con về điều này đúng theo sự thật.Jatukanni:

1096. Ja-tu-kan-ni nói:
Ðược nghe bậc anh hùng,
Không tham đắm dục vọng,
Nên con đã đến đây,
Ðể hỏi bậc vô dục,
Ðã thoát khỏi bộc lưu,
Bậc sanh với con mắt,
Hãy nói đường an tịnh,
Thế Tôn hãy như thật,
Nói cho con được biết.

11-2. Bhagavā hi kāme abhibhuyya irīyati ādiccova paṭhaviṃ tejī tejasā parittapaññassa me bhūripañña ācikkha dhammaṃ yamahaṃ vijaññaṃ jātijarāya idha vippahānaṃ.

11-2. Bởi vì sau khi đã chế ngự các dục, đức Thế Tôn hành xử (các oai nghi) ví như thái dương có sức nóng (chế ngự) trái đất bằng sức nóng. Thưa bậc có tuệ bao la, đối với con là người có tuệ nhỏ nhoi, xin ngài hãy chỉ bảo về Giáo Pháp để con có thể nhận thức sự lìa bỏ đối với sanh và già ở nơi đây.”

1097. Chinh phục dục vọng xong,
Thế Tôn sống ở đời,
Như mặt trời chiếu sáng,
Cõi đất với hào quang,
Bậc trí tuệ rộng lớn,
Hãy nói pháp cho con,
Kẻ trí tuệ bé nhỏ,
Do rõ biết pháp này,
đây, con đoạn được,
Kể cả sanh và già.

11-3. Kāmesu vinaya gedhaṃ (jatukaṇṇīti bhagavā) nekkhammaṃ daṭṭhu khemato uggahitaṃ niratthaṃ vā mā te vijjittha kiñcanaṃ.

11-3. (Đức Thế Tôn nói: “Này Jatukaṇṇī,) ngươi hãy dẹp bỏ sự thèm khát ở các dục để nhìn thấy sự xuất ly là an toàn. Dầu đã được nắm bắt hay đã được vứt bỏ, sự vướng bận chớ có hiện diện đối với ngươi.Thế Tôn:

1098. Thế Tôn nói như sau:
Hỡi Ja-tu-kan-ni!
Hãy nhiếp phục lòng tham,
Ðối với các dục vọng;
Hãy nhìn hạnh xuất ly,
Ðưa đến sự an ổn;
Chớ chấp chờ, từ bỏ,
Sự vật gì ở đời.

11-4. Yaṃ pubbe taṃ visosehi pacchā te māhu kiñcanaṃ majjhe ce no gahessasi upasanto carissasi.

11-4. Điều (ô nhiễm) nào trước đây (quá khứ), ngươi hãy làm khô héo điều ấy. Chớ có bất cứ điều (ô nhiễm) gì sanh khởi đến ngươi sau này (vị lai). Nếu ngươi sẽ không nắm lấy (điều gì) ở khoảng giữa (hiện tại), ngươi sẽ sống, được an tịnh.

1099. Những gì có trước Ông,
Hãy làm nó khô cạn,
Ðừng có sự vật gì,
Ở phía đàng sau Ông,
Ở giữa, Ông không chấp,
Ông sẽ sống an tịnh.

11-5. Sabbaso nāmarūpasmiṃ vītagedhassa brāhmaṇa āsavāssa na vijjanti yehi maccuvasaṃ vaje ”ti.

11-5. Này Bà-la-môn, đối với vị đã xa lìa sự thèm khát ở danh và sắc về mọi phương diện, đối với vị này các lậu hoặc không hiện hữu, bởi vì chúng, con người rơi vào sự thống trị của Tử thần.”

1100. Hỡi này Bà-la-môn!
Ðối với danh và sắc,
Hoàn toàn không tham đắm,
Không có các lậu hoặc,
Chính do lậu hoặc này,
Bị thần chết chi phối.

 Jatukaṇṇīmāṇavapucchā niṭṭhitā.

 Dứt Câu Hỏi Của Thanh Niên Jatukaṇṇī.



Phiên bản thư viện demo v4.5 [Tipiṭaka Tiếng Việt] Theravada