7-1. Santi loke munayo (iccāyasmā nando) janā vadanti tayidaṃ kathaṃsu ñāṇūpapannaṃ no muniṃ vadanti udāhu ve jīvitenūpapannaṃ.

(Tôn giả Nanda nói rằng:) “‘Các bậc hiền trí hiện hữu ở thế gian,’ dân chúng nói như thế; theo ngài, điều này (có ý nghĩa) thế nào? Họ nói người đã thành tựu về trí là bậc hiền trí, hay là người đã thực sự thành tựu về lối sống?”Nanda:

1077. Tôn giả Nan-da nói:
Quần chúng có nói rằng:
Có ẩn sĩ ở đời,
Ngài nghĩ như thế nào?
Chúng gọi là ẩn sĩ
Vị có đầy đủ trí?
Hay vị đầy đủ mạng?

7-2. Na diṭṭhiyā na sutiyā na ñāṇena (nandāti bhagavā) munīdha nanda kusalā vadanti visenikatvā anīghā nirāsā caranti ye te munayo ’ti brūmi.

7-2. (Đức Thế Tôn nói: “Này Nanda,) không phải do thấy, không phải do nghe, không phải do trí, mà các bậc thiện xảo ở nơi đây gọi là bậc hiền trí. Những người nào sau khi tiêu diệt đạo binh (ô nhiễm), sống không phiền muộn, không mong cầu, Ta nói rằng những người ấy là các bậc hiền trí.”Thế Tôn:

1078. Các bậc thiện nói rằng:
Ở đời này Nan-da,
Không phải vì tri kiến,
Vì truyền thống, vì trí
Ðược gọi là ẩn sĩ,
Ta chỉ gọi ẩn sĩ,
Những ai diệt quân lực,
Không phiền não, không cầu.

7-3. Ye kecime samaṇabrāhmaṇā se (iccāyasmā nando) diṭṭhe sutenāpi vadanti suddhiṃ sīlabbatenāpi vadanti suddhiṃ anekarūpena vadanti suddhiṃ kacci su te bhagavā tattha yathā carantā atāru jātiṃ ca jaraṃ ca mārisa pucchāmi taṃ bhagavā brūhi metaṃ.

7-3. (Tôn giả Nanda nói rằng:) “Bất cứ những Sa-môn và Bà-la-môn nào nói rằng sự trong sạch là do thấy và do nghe, nói rằng sự trong sạch là do giới và phận sự, nói rằng sự trong sạch là do nhiều hình thức, có phải những vị ấy, thưa đức Thế Tôn, trong khi sống kiềm chế ở nơi ấy, họ đã vượt qua sanh và già, thưa ngài? Con hỏi ngài, thưa đức Thế Tôn, xin ngài hãy trả lời con về điều này.”  

Nanda:
1079. Tôn giả Nan-đa thưa:
Có Sa-môn, Phạm chí,
Nói rằng sự thanh tịnh
Là nhờ thấy, nhờ nghe;
Có người lại nói rằng:
Thanh tịnh do giới cấm;
Có người lại nói rằng:
Thanh tịnh do nhiều pháp.
Bạch Thế Tôn, như vậy,
Là sở hành của chúng,
Vậy Ngài nghĩ thế nào,
Chúng có thể vượt qua,
Sanh và già thưa Ngài,
Con kính hỏi Thế Tôn,
Mong Ngài trả lời con.

7-4. Ye kecime samaṇabrāhmaṇā se (nandāti bhagavā) diṭṭhe sutenāpi vadanti suddhiṃ sīlabbatenāpi vadanti suddhiṃ anekarūpena vadanti suddhiṃ kiñcāpi te tattha yathā caranti nātariṃsu jātijaranti brūmi.

7-4. (Đức Thế Tôn nói: “Này Nanda,) bất cứ những vị Sa-môn và Bà-la-môn nào nói rằng sự trong sạch là do thấy và do nghe, nói rằng sự trong sạch là do giới và phận sự, nói rằng sự trong sạch là do nhiều hình thức, mặc dầu những vị ấy, trong khi sống kiềm chế ở nơi ấy, Ta nói rằng: ‘Họ đã không vượt qua sanh và già.’”  Thế Tôn:

1080. Thế Tôn nói: Nan-đa!
Sa-môn, Phạm chí này,
Nói rằng sự thanh tịnh
Là nhờ thấy, nhờ nghe;
Có người lại nói rằng:
Thanh tịnh do giới cấm;
Có người lại nói rằng:
Thanh tịnh do nhiều pháp.
Dầu chúng ở tại đây,
Với sở hành như vậy,
Ta nói chúng không vượt,
Khỏi sanh và khỏi già.

7-5. Ye kecime samaṇabrāhmaṇā se (iccāyasmā nando) diṭṭhe sutenāpi vadanti suddhiṃ sīlabbatenāpi vadanti suddhiṃ anekarūpena vadanti suddhiṃ.

7-5. (Tôn giả Nanda nói rằng:) “Bất cứ những vị Sa-môn và Bà-la-môn nào nói rằng sự trong sạch là do thấy và do nghe, nói rằng sự trong sạch là do giới và phận sự, nói rằng sự trong sạch là do nhiều hình thức.Nan-da:
1081. Tôn giả Nan-đa thưa:
Sa-môn, Phạm chí này,
Nói rằng sự thanh tịnh
Là nhờ thấy, nhờ nghe;
Có người lại nói rằng:
Thanh tịnh do giới cấm;
Có người lại nói rằng:
Thanh tịnh do nhiều pháp.

7-6. Te ce munī brūhi anoghatiṇṇe atha ko carahi devamanussaloke atāri jātiñca jarañca mārisa pucchāmi taṃ bhagavā brūhi metaṃ.  

7-6. Thưa bậc hiền trí, nếu ngài nói những vị ấy là không vượt qua dòng lũ, vậy giờ đây, thưa ngài, người nào ở thế giới chư Thiên và nhân loại đã vượt qua sanh và già? Con hỏi ngài, thưa đức Thế Tôn, xin ngài hãy trả lời con về điều này.”
 

Thưa ẩn sĩ, Ngài nói:
Chúng không vượt bộc lưu,
Vậy ai có thể được,
Giữa thế giới Trời, Người,
Có thể vượt qua được,
Sanh và già, thưa Ngài,
Con xin hỏi Thế Tôn
Mong Ngài trả lời con.

7-7. Nāhaṃ sabbe samaṇabrāhmaṇā se (nandāti bhagavā) jātijarāya nivutā ’ti brūmi ye sūdha diṭṭhaṃ va sutaṃ mutaṃ vā sīlabbataṃ vāpi pahāya sabbaṃ anekarūpampi pahāya sabbaṃ taṇhaṃ pariññāya anāsavā se te ve narā oghatiṇṇā ’ti brūmi.

7-7. (Đức Thế Tôn nói: “Này Nanda,) Ta không nói rằng tất cả các vị Sa-môn và Bà-la-môn đều bị bao trùm bởi sanh và già. Ở đây, những vị nào đã dứt bỏ điều đã được thấy, hoặc đã được nghe, hoặc đã được cảm giác, hoặc thậm chí tất cả giới và phận sự, hoặc đã dứt bỏ mọi hình thức nhiều loại, đã biết toàn diện về tham ái, không còn lậu hoặc, Ta nói rằng ‘những con người ấy thật sự đã vượt qua dòng lũ.’”Thế Tôn:

1082. Thế Tôn nói: Nan-đa
Ta không nói tất cả,
Sa-môn, Bà-la-môn
Bị sanh già che lấp.
Những ai ở đời này,
Ðoạn tận khắp tất cả,
Ðiều được nghe được thấy,
Ðược cảm tưởng, giới cấm,
Và đoạn nhiều pháp khác,
Liễu tri ái, vô lậu,
Ta nói những người ấy,
Vượt qua được bộc lưu.

7-8. Etābhinandāmi vaco mahesino (iccāyasmā nando) sukittitaṃ gotamanūpadhīkaṃ ye sūdha diṭṭhaṃ va sutaṃ mutaṃ vā sīlabbataṃ vāpi pahāya sabbaṃ anekarūpampi pahāya sabbaṃ taṇhaṃ pariññāya anāsavā se ahampi te oghatiṇṇā ’ti brūmī ”ti.

7-8. (Tôn giả Nanda nói rằng:) “Thưa ngài Gotama, con thích thú lời nói này của bậc đại ẩn sĩ, đã khéo được trình bày, không liên quan đến mầm tái sanh. Ở đây, những vị nào đã dứt bỏ điều đã được thấy, hoặc đã được nghe, hoặc đã được cảm giác, hoặc thậm chí tất cả giới và phận sự, hoặc đã dứt bỏ mọi hình thức nhiều loại, đã biết toàn diện về tham ái, không còn lậu hoặc, con cũng nói rằng ‘những vị ấy đã vượt qua dòng lũ.’”Nanda:

1083. Con cảm thấy hoan hỷ,
Lời Ðại sĩ Cù-đàm,
Ðược Ngài khéo thuyết giảng,
Về chấm dứt sanh y,
Những ai ở đời này,
Ðoạn tận khắp tất cả,
Ðiều được nghe, được thấy,
Ðược cảm tưởng, giới cấm,
Và đoạn nhiều pháp khác,
Liễu tri ái, vô lậu,
Ta nói những người ấy,
Vượt qua khỏi bộc lưu.

 Nandamāṇavapucchā niṭṭhitā.

 Dứt Câu Hỏi Của Thanh Niên Nanda.



Phiên bản thư viện demo v4.5 [Tipiṭaka Tiếng Việt] Theravada