5-1. Pucchāmi taṃ bhagavā brūhi metaṃ (iccāyasmā dhotako) vācābhikaṅkhāmi mahesi tuyhaṃ tava sutvāna nigghosaṃ sikkhe nibbānamattano.

5-1. (Tôn giả Dhotaka nói rằng:) “Thưa đức Thế Tôn, con hỏi ngài. Xin ngài hãy trả lời con về điều này. Thưa bậc đại ẩn sĩ, con mong mỏi lời nói của ngài. Sau khi lắng nghe lời tuyên bố của ngài, con có thể học tập về sự tịch diệt cho bản thân.”Dhotaka:

1061. Tôn giả Dhô-ta-ka:
Con xin hỏi Thế Tôn,
Mong Ngài trả lời cho,
Con chờ đợi lời Ngài,
Kính thưa bậc Ðại sĩ,
Nghe lời Ngài tuyên bố,
Chúng con sẽ tự mình,
Học tập giới Niết-bàn.

5-2. Tena h’ ātappaṃ karohi (dhotakāti bhagavā) idheva nipako sato ito sutvāna nigghosaṃ sikkhe nibbānamattano.

5-2. (Đức Thế Tôn nói: “Này Dhotaka,) chính vì điều ấy, ngươi hãy thực hiện sự năng nổ, ngay tại nơi này, hãy là người có sự chín chắn, có niệm. Sau khi lắng nghe lời tuyên bố từ nơi đây, nên học tập về sự tịch diệt cho bản thân.”Thế Tôn:

1062. Thế Tôn đáp lại rằng:
Hỡi này Dhô-ta-ka,
 đây Ông nhiệt tâm,
Sáng suốt và chánh niệm,
Từ đây, nghe tuyên b,
Tự học tập Niết-bàn.

5-3. Passāmahaṃ deva manussaloke (iccāyasmā dhotako) akiñcanaṃ brāhmaṇamiriyamānaṃ taṃ taṃ namassāmi samantacakkhu pamuñca maṃ sakka kathaṃkathāhi.

5-3. (Tôn giả Dhotaka nói rằng:) “Con nhìn thấy ở thế giới của chư Thiên và loài người vị Bà-la-môn không còn vướng bận đang hành xử (bốn oai nghi). Vì thế, thưa bậc Toàn Nhãn, con xin kính lễ ngài. Thưa vị dòng Sakya, xin ngài hãy giải thoát cho con khỏi các mối nghi ngờ.”Dhotaka:

1063. Con thấy ở thế giới,
Chư Thiên và loài Người,
Sở hành của Phạm chí,
Không một gì sở hữu.
Con đảnh lễ chính Ngài,
Bậc có mắt cùng khắp,
Kính thưa bậc Thích tử,
Hãy giải thoát cho con,
Tất cả mọi nghi ngờ.

5-4. Nāhaṃ sahissāmi pamocanāya (dhotakāti bhagavā) kathaṃkathiṃ dhotaka kañci loke dhammaṃ ca seṭṭhaṃ ājānamāno evaṃ tuvaṃ oghamimaṃ taresi.

5-4. (Đức Thế Tôn nói: “Này Dhotaka,) Ta sẽ không có khả năng về việc giúp cho giải thoát bất cứ người nào ở thế gian có nỗi nghi hoặc, này Dhotaka. Nhưng trong khi biết rõ Giáo Pháp tối thượng, như vậy ngươi có thể vượt qua dòng lũ này.”Thế Tôn:

1064. Hỡi này Dhô-ta-ka,
Ta sẽ không đi đến,
Giải thoát cho một ai,
Có nghi ngờ ở đời,
Khi pháp được Ông biết,
Là tối thượng tối thắng,
Như vy Ông vượt khỏi,
Dòng nước chảy mạnh này.

5-5. Anusāsa brahme karuṇāyamāno (iccāyasmā dhotako) vivekadhammaṃ yamahaṃ vijaññaṃ yathāhaṃ ākāso’va avyāpajjamāno idheva santo asito careyyaṃ.

5-5. (Tôn giả Dhotaka nói rằng:) “Thưa đấng Phạm Thiên, xin ngài hãy từ mẫn chỉ dạy pháp viễn ly để con có thể nhận thức được pháp ấy, theo đó, ví như hư không, không bị xáo trộn, con có thể sống ở chính nơi này, được an tịnh, không nương nhờ.”Dhotaka:

1065. Hãy giáo hóa, từ mẫn,
Ôi bậc đại Phạm thiên,
Ðể con được rõ biết,
Pháp viễn ly vô thượng,
Như vậy con sẽ sống,
Như trời không áp bức,
Sở hành ở đời này,
An tịnh và độc lập.

5-6. Kittayissāmi te santiṃ (dhotakāti bhagavā) diṭṭhe dhamme anītihaṃ yaṃ viditvā sato caraṃ tare loke visattikaṃ.

5-6. (Đức Thế Tôn nói: “Này Dhotaka,) Ta sẽ giải thích cho ngươi về sự an tịnh, về pháp đã được thấy, không phải do nghe nói lại; sau khi hiểu pháp ấy, vị có niệm, trong khi sống, có thể vượt qua sự vướng mắc ở thế gian.”Thế Tôn:

1066. Thế Tôn liền nói rằng:
Hỡi này Dho-ta-ka,
Ta sẽ giảng cho Ông,
Pháp tịch tịnh hiện tại;
Không do xưa truyền lại,
Sau khi biết pháp này,
Hãy sống, giữa chánh niệm
ợt tham ái ở đời.

5-7. Taṃ cāhaṃ abhinandāmi (iccāyasmā dhotako) mahesi santimuttamaṃ yaṃ viditvā sato caraṃ tare loke visattikaṃ.

5-7. (Tôn giả Dhotaka nói rằng:) “Và con thích thú về điều ấy, thưa bậc đại ẩn sĩ, về sự an tịnh tối thượng; sau khi hiểu pháp ấy, vị có niệm, trong khi sống, có thể vượt qua sự vướng mắc ở thế gian.”
 Dhotaka:

1067. Con cảm thấy hoan hỷ,
Pháp bậc Ðại sĩ giảng,
Pháp tịch tịnh vô thượng;
Sau khi biết pháp này,
Con sẽ sống chánh niệm,
ợt tham ái ở đời.

5-8. Yaṃ kiñci sampajānāsi (dhotakāti bhagavā) uddhaṃ adho tiriyaṃ cāpi majjhe etaṃ viditvā saṅgo ’ti loke bhavābhavāya mākāsi taṇhan ”ti.

5-8. (Đức Thế Tôn nói: “Này Dhotaka,) bất cứ điều gì mà ngươi tự mình nhận biết, ở bên trên, bên dưới, luôn cả bề ngang và khoảng giữa, sau khi hiểu điều này là ‘sự quyến luyến’ ở thế gian, ngươi chớ tạo ra tham ái ở hữu và phi hữu.”Thế Tôn:

1068. Thế Tôn lời đáp lại:
Hỡi này Dho-ta-ka,
Phàm Ông rõ biết gì,
Cao, thấp, ngang, chặng giữa,
Sau khi được rõ biết,
Tham ái này ở đời,
Chớ tạo nên khát ái
Với hữu và phi hữu.

Dhotakamāavapucchā niṭṭhitā.

 Dứt Câu Hỏi Của Thanh Niên Dhotaka.



Phiên bản thư viện demo v4.5 [Tipiṭaka Tiếng Việt] Theravada