3-1. Anejaṃ mūladassāviṃ ( iccāyasmā puṇṇako) atthi pañhena āgamaṃ kiṃnissitā isayo manujā khattiyā brāhmaṇā devatānaṃ yaññamakappayiṃsu puthu idha loke pucchāmi taṃ bhagavā brūhi metaṃ.

3-1. (Tôn giả Puṇṇaka hỏi rằng:) “Với ý định hỏi câu hỏi, tôi đã đi đến với bậc không dục vọng, bậc có sự nhìn thấy gốc rễ (của các pháp): ‘Nương tựa vào điều gì, các vị ẩn sĩ, loài người, các Sát-đế-lỵ, các Bà-la-môn, đối với các thiên thần, đã chuẩn bị lễ hiến tế đông đảo tại nơi này, ở thế gian. Thưa đức Thế Tôn, tôi hỏi ngài. Xin ngài hãy trả lời tôi về điều này.”

Punnaka:

1043. Tôn giả Pun-na-ka:
Với ai không dao động,
Thấy rõ được cội gốc,
Con đến với câu hỏi,
Liên hệ đến mục đích,
Bậc ẩn sĩ, loài Người,
Sát-đế-ly, Phạm chí,
Do họ y chỉ gì,
Tế đàn cho chư Thiên.
Ðã tổ chức rộng lớn?
Con hỏi bậc Thế Tôn,
Hãy trả lời cho con.

3-2. Ye kec’ ime isayo manujā (puṇṇakāti bhagavā) khattiyā brāhmaṇā devatānaṃ yaññamakappayiṃsu puthu idha loke āsiṃsamānā puṇṇaka itthabhāvaṃ jaraṃsitā yaññamakappayiṃsu.

3-2. (Đức Thế Tôn nói: “Này Puṇṇaka,) bất cứ những ai, các vị ẩn sĩ, loài người, các Sát-đế-lỵ, các Bà-la-môn, đối với các thiên thần, đã chuẩn bị lễ hiến tế đông đảo tại nơi này, ở thế gian, này Puṇṇaka, trong khi mong ước bản thể này, bị phụ thuộc vào tuổi già, họ đã chuẩn bị lễ hiến tế.”

Thế Tôn:

1044. Thế Tôn bèn đáp rằng:
Hỡi này Pun-na-ka!
Bậc ẩn sĩ loài Người,
Sát-đế-ly, Phạm chí,
Ðã tổ chức rộng lớn,
Tế đàn cho chư Thiên.
Khi họ thành già yếu,
Họ tổ chức tế đàn,
Vì rằng họ hy vọng,
Ðược sanh ở đời này,
Hỡi này Pun-na-ka!

3-3. Ye kec’ ime isayo manujā (iccāyasmā puṇṇako) khattiyā brāhmaṇā devatānaṃ yaññamakappayiṃsu puthu idha loke kaccissu te bhagavā yaññapathe appamattā atāru jātiṃ ca jaraṃ ca mārisa pucchāmi taṃ bhagavā brūhi metaṃ.

3-3. (Tôn giả Puṇṇaka hỏi rằng:) “Bất cứ những ai, các vị ẩn sĩ, loài người, các Sát-đế-lỵ, các Bà-la-môn, đối với các thiên thần, đã chuẩn bị lễ hiến tế đông đảo tại nơi này, ở thế gian, thưa đức Thế Tôn, có phải những người ấy, không xao lãng ở đường lối tế lễ, thưa ngài, thì họ đã vượt qua sanh và già? Thưa đức Thế Tôn, tôi hỏi ngài. Xin ngài hãy trả lời tôi về điều này.”

Punnaka:

1045. Tôn giả Pun-na-ka:
Bậc ẩn sĩ loài Người,
Sát-đế-ly, Phạm chí,
Ðã tổ chức rộng lớn,
Tế đàn cho chư Thiên.
Thế Tôn nghĩ thế nào,
Họ không có phóng dật
Trên con đường tế đàn,
Họ vượt qua già chết,
Ðưc hay không, thưa Ngài,
Con hỏi đức Thế Tôn,
Con mong Ngài trả lời?

3-4. Āsiṃsanti thomayanti abhijappanti juhanti (puṇṇakāti bhagavā) kāmābhijappanti paṭicca lābhaṃ
te yājayogā bhavarāgarattā nātariṃsu jātijaranti brūmi.

3-4. (Đức Thế Tôn nói: “Này Puṇṇaka,) những kẻ mong ước, khen ngợi, cầu khấn, cúng tế, những kẻ cầu khấn các dục bởi vì lợi lộc, Ta nói rằng: ‘Những kẻ ấy, do sự gắn bó vào tế lễ, bị luyến ái với sự luyến ái vào hiện hữu, đã không vượt qua sanh và già.’”

Thế Tôn:

1046. Thế Tôn trả lời rằng:
Hỡi này Pun-na-ka,
Họ hy vọng, tán thán,
Họ cầu nguyện, cúng lễ,
Họ cầu nguyện các dục,
Do duyên vì lợi dưỡng,
Chuyên tâm lo tế đàn,
Ưa thích, tham sanh hữu,
Họ không vượt già chết,
Ta nói lên như vậy.

3-5. Te ce nātariṃsu yājayogā (iccāyasmā puṇṇako) yaññehi jātiñca jarañca mārisa atha ko carahi devamanussaloke atāri jātiṃ ca jaraṃ ca mārisa pucchāmi taṃ bhagavā brūhi metaṃ.

3-5. (Tôn giả Puṇṇaka hỏi rằng:) “Thưa ngài, nếu những kẻ ấy, do sự gắn bó vào tế lễ, đã không vượt qua sanh và già nhờ vào các lễ hiến tế, vậy giờ đây, thưa ngài, người nào ở thế giới chư Thiên và nhân loại đã vượt qua sanh và già? Thưa đức Thế Tôn, tôi hỏi ngài. Xin ngài hãy trả lời tôi về điều này.”

Punnaka:

1047. Tôn giả Pun-na-ka:
Nếu chúng chuyên tế đàn,
Nhưng không th vượt qua,
Già chết với tế đàn,
Thời ai sống ở đời,
Trong thế giới Nhơn, Thiên,
Ðã vượt qua già chết,
Ai được vậy, thưa Ngài,
Con hỏi đức Thế Tôn,
Ngài trả lời cho con?

3-6. Saṅkhāya lokasmiṃ parovarāni (puṇṇakāti bhagavā) yassiñjitaṃ natthi kuhiñci loke santo vidhūmo anīgho nirāso atāri so jātijaranti brūmī ”ti.

3-6. (Đức Thế Tôn nói: “Này Puṇṇaka,) sau khi đã suy xét nơi này và nơi khác ở thế gian, vị nào không có sự dao động tại bất cứ nơi nào ở thế gian, là bậc an tịnh, không còn khói mù, không phiền muộn, không mong cầu, Ta nói rằng, vị ấy đã vượt qua sanh và già.”

Thế Tôn:

1048. Thế Tôn trả lời rằng:
Hỡi này Pun-na-ka,
Ai tính toán cao thấp,
Ưc lượng vậy ở đời,
Ai không bị dao động,
Bất cứ đâu  đời,
An tịnh, không phun khói,
Không phiền não, không cầu,
Vị ấy vượt già chết,
Ta nói lên như vậy.

 Puṇṇakamāavapucchā niṭṭhitā.

 Dứt Câu Hỏi Của Thanh Niên Puṇṇaka.



Phiên bản thư viện demo v4.5 [Tipiṭaka Tiếng Việt] Theravada