1323.Ở vào kiếp Bhadda này, trong số các vị đang thuyết giảng đã hiện khởi đấng cao quý tên là Kassapa, có danh tiếng vĩ đại, là thân quyến của đấng Phạm Thiên.

1324.Con đã đưc sanh ra trong gia đình cư sĩ tại kinh thành Sāvatthī. Sau khi nhìn thấy đấng Chiến Thắng cao quý ấy con đã lắng nghe lời thuyết giảng.

1325.Sau khi đi đến nương tựa vào vị Anh Hùng ấy, con đã thọ trì các giới. Có lần nọ bậc Đại Hùng ấy ở tại cuộc tụ hội của đám đông dân chúng.

1326.Đng Nhân Ngưu đã công bố quả vị Chánh Đẳng Giác của mình: “Về các pháp trưc đây chưa tng được nghe, về khổ, v.v...

1327.(Pháp) nhãn, trí, tuệ, minh, và ánh sáng đã có cho Ta.” Sau khi lắng nghe điều ấy, con đã học và đã vấn hỏi các vị tỳ khưu.

1328.Do nghiệp ấy đã được thực hiện tốt đẹp và do các nguyện lực của tác ý, sau khi từ bỏ thân nhân loại con đã đi đến cõi trời Đạo Lợi.

1329.Và trong kiếp sống cuối cùng hiện nay, đưc sanh ra trong đi gia đình triệu phú con đã đi đến đức Phật và đã lắng nghe Chánh Pháp bao gồm các Sự Thật.

1330.Sau khi xuất gia chẳng bao lâu, trong khi suy xét về ý nghĩa của các Sự Thật, con đã quăng bỏ tất cả các lậu hoặc và đã thành tựu phẩm vị A-la-hán.

1331.Bạch đng Đại Hiền Trí, con đã có năng lực về các loại thần thông và thiên nhĩ giới, con đã có năng lực về trí biết tâm của người khác.

1332.Con biết đưc đời sống trưc đây, thiên nhãn được thanh tịnh, tất cả các lậu hoặc đã được cạn kiệt, giờ đây không còn tái sanh nữa.

1333.Trí tuệ của con về ý nghĩa, về pháp, về ngôn từ, và tương t y như thế về phép biện giải là trong sạch, không bợn nhơ, nhờ vào sự tác động của đức Phật tối thượng.

1334.Các phiền não của con đã đưc thiêu đốt, tất cả các hữu đã được xóa sạch. Sau khi cắt đứt sự trói buộc như là con voi cái (đã được cởi trói), con sống không còn lậu hoặc.

1335.Quả vậy, con đã thành công mỹ mãn, đã thành tựu tam minh, đã thực hành lời dạy của đức Phật trong sự hiện tiền của đức Phật tối thượng.

1336.Bốn (tuệ) phân tích, tám giải thoát, và sáu thắng trí đã đưc con đắc chứng; con đã thực hành lời dạy của đức Phật.

Tỳ khưu ni Pesalā đã nói lên những lời kệ này như thế ấy.

Ký sự về trưởng lão ni Pesalā là phần thứ mười.

Phẩm Sát-đế-lỵ là phẩm thứ tư.

--ooOoo--

TÓM LƯỢC CỦA PHẨM NÀY

Các vị ni dòng Sát-đế-lỵ, luôn cả các vị ni dòng Bà-la-môn, tương tợ như thế là vị ni Uppaladāyikā, vị ni Sigālamātā, vị ni Sukkā, vị ni vô cùng xinh đẹp (Rūpanandā), vị ni Aḍḍhakāsikā, vị ni Puṇṇā, vị ni Ambapālī, và vị ni Pesalā ấy là mười. Ở đây, có hai trăm câu kệ ngôn và thêm vào bốn mươi hai câu nữa.

--ooOoo--

GIỜ LÀ PHẦN TÓM LƯỢC CỦA CÁC PHẨM

(Bốn Phẩm) Sumedhā, Ekūposathā, Kuṇḍalakesī, Khattiyā được gộp chung lại có một ngàn ba trăm bốn mươi bảy kệ ngôn. Cùng với các câu kệ của phần tóm lược đã được tính đếm bởi các bậc trí là một ngàn ba trăm năm mươi bảy câu kệ cả thảy.

Ký Sự về Trưởng Lão Ni được đầy đủ.

Bộ Kinh Apadāna được đầy đủ.

--ooOoo--

[1] Xem Bổn Sanh Sulasā, tích chuyện 419.

[2] Sau khi đã được nhổ sạch, những sợi tóc mọc lại đã bị xoắn nên có biệt hiệu là Kuṇḍalakesā (tóc xoắn).

[3] Kinh Pháp Cú, câu 113.

[4] Xem thêm Kinh Cūlavedallasuttaṃ - Tiểu Kinh Phương Quảng, Trung Bộ I.

[5] Kinh Pháp Cú, câu 112.

[6] Các câu kệ từ 952 - 957 không thấy ở Tạng Thái và Tạng Anh.

[7] Jambudīpa: bán đảo Ấn Độ.

[8] Một koṭi là mười triệu.

[9] Kế tiếp có hai mươi câu kệ được thấy ở Tạng Thái, Miến, Anh, nhưng không thấy ở Tạng Sri Lanka. Vì nội dung không có gì đặc sắc nên không thêm vào.

[10] Uppaladāyikā có ý nghĩa là “người nữ dâng cúng hoa sen xanh.”

[11] Sigālamātā nghĩa là “mẹ của Sigāla.”

[12] Xem Sigālasuttaṃ, Kinh Trường Bộ III.

[13] Hai koṭi là hai mươi triệu.

[14] Việc này được đề cập ở Luật Đại Phẩm, Chương 1.

[15] Việc này được đề cập ở Luật Tiểu Phẩm, Chương 10.



Phiên bản thư viện demo v4.5 [Tipiṭaka Tiếng Việt] Theravada