1287.(Trong Giáo Pháp) của đức Thế Tôn Vipassī, Sikhī, Vessabhū, Kakusandha, và như thế ấy (trong Giáo Pháp) của bậc Hiền Trí Koṇāgamana.

1288.Và trong Giáo Pháp của đức Phật Kassapa, sau khi xuất gia con đã là vị tỳ khưu ni thành tựu về giới, cẩn trọng, có các giác quan được thu thúc.

1289.Là người nghe nhiều (học rộng), thông thạo Giáo Pháp, là người vấn hỏi các ý nghĩa của Giáo Pháp, là người học tập và lắng nghe các Pháp, là người phục vụ (bậc Đo Sư).

1290.Trong khi thuyết giảng ở giữa dân chúng, con đã ở trong Giáo Pháp của đấng Chiến Thắng. Với sự học rộng ấy, hạnh tốt, con đã tự cao.

1291.Và trong kiếp sống cuối cùng hiện nay, con đã được sanh ra tại kinh thành Sāvatthī trong nhà của Anāthapiṇḍika, (con) của người nữ tỳ lo việc đi nước.

1292.Đi đi nưc, con đã nhìn thấy vị Bà-la-môn Sotthiya bị khổ sở vì lạnh ở trong nước. Sau khi nhìn thấy vị ấy, con đã nói điều này:

1293.Là nời nữ đi nước, tôi ở trong sự lạnh lẽo, tôi đã thường xuyên lội xuống nước. Tôi sợ hãi vì nỗi lo về hình phạt của những người chủ, bị khổ sở vì nỗi lo về sự sai trái của lời nói.

1294.Này người Bà-la-môn, ngài sợ hãi điều gì khiến ngài đã thường xuyên lội xuống nước? Với các bộ phận của cơ th đang run rẩy, ngài tự biết sự lạnh là kinh khủng.”

1295.Này cô Puṇṇikā quý mến, quả nhiên trong khi cô biết lại còn chất vấn ta là ngưi đang thực hiện việc tốt và đang cn ngăn điu ác đã làm.

1296.Này cô, người nào dầu già hoặc còn trẻ thực hiện nghiệp ác, nhờ vào việc tắm gội bằng nưc (người ấy) được thoát khỏi nghiệp ác.”

1297.Con đã nói cho ngưi đang lội ra (khỏi nước) về Đạo Lộ hội đủ Pháp và ý nghĩa. Và sau khi biết đưc điều ấy, bị chấn đng, người ấy đã xuất gia và đã trở thành vị A-la-hán.

1298.Do việc con đã được sanh ra ở gia đình nô bộc làm tròn đủ một trăm (người) không thiếu hụt, vì việc đó tên của con là Puṇṇā. Nhng người (chủ) ấy đã cho con trở thành người tự do.

1299.Nhờ vào điều ấy, con đã làm cho người triệu phú được hoan hỷ và con đã xuất gia vào đời sống không gia đình Trong thời gian không bao lâu con đã thành tựu phẩm vị A-la-hán.

1300.Bạch đng Đại Hiền Trí, con đã có năng lực về các loại thần thông và thiên nhĩ giới, con đã có năng lực về trí biết tâm của người khác.

1301.Con biết đưc đời sống trưc đây, thiên nhãn được thanh tịnh, tất cả các lậu hoặc đã được cạn kiệt, giờ đây không còn tái sanh nữa.

1302.Trí tuệ của con về ý nghĩa, về pháp, về ngôn từ, và tương t y như thế về phép biện giải là trong sạch, không bợn nhơ, nhờ vào sự tác động của đức Phật tối thượng.

1303.Do việc tu tập con trở thành vị ni có đại trí tuệ, và do việc nghe con trở thành vị ni thông thái, Việc bị sanh ra trong gia tộc hạ tiện do ngã mạn chính là vì nghiệp không bị tiêu hoại.

1304.Các phiền não của con đã được thiêu đốt, tất cả các hữu đã được xóa sạch. Sau khi cắt đứt sự trói buộc như là con voi cái (đã được cởi trói), con sống không còn lậu hoặc.

1305.Quả vậy, con đã thành công mỹ mãn, đã thành tựu tam minh, đã thực hành lời dạy của đức Phật trong sự hiện tiền của đức Phật tối thượng.

1306.Bốn (tuệ) phân tích, tám giải thoát, và sáu thắng trí đã đưc con đắc chứng; con đã thực hành lời dạy của đức Phật.

Tỳ khưu ni Puṇṇā trước mặt đức Thế Tôn đã nói lên những lời kệ này như thế ấy.

Ký sự về trưởng lão ni Puṇṇā là phần thứ tám.

--ooOoo--



Phiên bản thư viện demo v4.5 [Tipiṭaka Tiếng Việt] Theravada