882.Trưc đây mt trăm ngàn kiếp, vị Lãnh Đo, đấng Chiến Thắng tên Padumuttara, bậc thông suốt về tất cả các pháp đã hiện khởi.

883.Khi ấy, ở tại Haṃsavatī có người triệu phú tên là Videha có rất nhiều châu báu. Tôi đã là vợ của người ấy.

884.Có lần nọ, người ấy cùng nhóm tùy tùng đã đi đến đấng Mặt Trời của nhân loại và đã lắng nghe Giáo Pháp đưa đến sự diệt tận tất cả khổ đau ca đức Phật.

885.Đấng Lãnh Đo đã ngợi khen vị Thinh Văn đng đầu trong số các vị thuyết về sự giũ bỏ (pháp đu-đà). Sau khi lắng nghe, chồng tôi đã dâng cúng vật thí đến đức Phật như thế ấy trong bảy ngày.

886.Chồng tôi trong khi làm hội chúng vui vẻ đã quỳ xuống đê đầu ở bàn chân và đã ước nguyện vị thế ấy. Chính vào khi ấy, đấng Cao Quý của loài người –

887.– vì lòng thương tưng đến người triệu phú, đã nói những lời kệ này: “Này con trai, ngươi s đt được vị thế đã ước nguyện rồi ngươi hãy Niết Bàn.

888.Vào một trăm ngàn kiếp về sau này, bậc Đo Sư tên Gotama, thuộc dòng dõi, xuất thân gia tộc Okkāka sẽ xuất hiện ở thế gian.

889.Ngươi sẽ trở thành nam Thinh Văn của bậc Đo Sư, là người thừa tự Giáo Pháp của vị(Phật) ấy, là chánh thống, được tạo ra từ Giáo Pháp, có tên là Kassapa.”

890.Nghe đưc điều ấy, chồng tôi đã trở nên hoan hỷ. Khi ấy, với tâm từ ái chồng tôi đã chăm sóc đấng Chiến Thắng, bậc Hưng Đạo bằng các vật dụng cho đến hết cuộc đời.

891.Vị (Phật) ấy đã làm chói sáng Giáo Pháp, đã chế phục các ngoại đo, đã hướng dẫn những ai đáng đưc hướng dẫn, rồi đã Niết Bàn cùng các vị Thinh Văn.

892.Khi đấng Cao Cả của thế gian ấy đã Niết Bàn, nhằm mục đích cúng dưng đến bậc Đo Sư chng tôi đã tập hợp các bạn bè quyến thuộc, rồi cùng với những người ấy đã cho xây dựng –

893.– ngôi bảo tháp làm bằng châu báu cao bảy do-tuần, chói sáng như là trăm ánh hào quang, được tỏa rộng ra như là bông hoa sālā chúa.

894.Tại nơi ấy, chồng tôi đã cho thực hiện bảy trăm ngàn chiếc đĩa nhỏ bằng chính bảy loại châu báu, chúng đang chói sáng như là ngọn lửa của cây sậy.

895.Chồng tôi đã cho đ đầy với dầu thơm ri đã cho thắp sáng các ngọn đèn ti nơi ấy nhằm mục đích cúng dưng đến bậc Đại Ẩn Sĩ, đấng Bi Mẫn của mọi sanh linh.

896.Chồng tôi đã cho thực hiện bảy trăm ngàn chu đy đn được chứa đầy với thuần các loại châu báu nhằm mục đích cúng dưng đến bậc Đại Ẩn Sĩ.

897.Ở giữa của mỗi nhóm tám chậu là những vật giá trị như vàng được chất đống. Chúng sáng rực với màu sắc tợ như ánh mặt trời vào mùa thu.

898.Chiếu sáng ở bốn cửa là các vòm cổng làm bằng châu báu. Chiếu sáng là những tấm ván xinh xắn làm bằng châu báu được dựng đứng.

899.Chói sáng là các lẳng hoa khéo tạo ra đưc đặt vòng quanh. Chói sáng là các cờ xí bằng châu báu được dựng đứng.

900.Và ngôi bảo tháp làm bằng ngọc quý này khéo đưc tô màu, khéo được thực hiện, sáng rực với màu sắc tợ như mặt trời vào lúc hoàng hôn.

901.Ngôi bảo tháp có ba bệ thờ. Chồng tôi đã chất đầy một bệ với đá màu vàng, một bệ với đá màu đỏ, và một bệ với đá màu đen.

902.Sau khi đã cho thực hiện việc cúng dưng đáng yêu như thế ấy đến bậc Thuyết Giảng cao quý, chồng tôi đã dâng cúng vật thí đến Hội Chúng tùy theo năng lc cho đến hết cuộc đời.

903.Sau khi đã cùng với người triệu phú ấy thực hiện toàn bộ những việc phước báu ấy cho đến hết cuộc đi, tôi đã đi đến nhàn cảnh cùng với chính người ấy.

904.Sau khi đã thọ hưởng sự thành công ở bản thể chư Thiên rồi nhân loại, tôi đã luân hồi cùng với chính người ấy như là hình bóng với xác thân vậy.

905.Trưc đây chín mươi mốt kiếp, đấng Lãnh Đạo Thế Gian Vipassī, vị có ánh mắt thu hút, bậc thấy rõ tất cả các pháp đã hiện khởi

906.Khi ấy ở tại Bandhumatī, người này là vị Bà-la-môn được công nhận là tốt lành, dồi dào về việc thâu đạt kiến thức, và đã bị lâm vào cảnh vô cùng khó khăn về tài sản.

907.Cũng vào khi ấy, với tâm ý tương đng tôi đã là nữ Bà-la-môn (vợ) của người ấy. Có lần, người Bà-la-môn cao quý ấy đã đi đến bậc Đại Hiền Trí.

908.ức Phật) ngồi ở đám ngưi đang thuyết giảng về vị thế Bất Tử. Sau khi nghe Pháp, được hoan hỷ người ấy đã dâng cúng một tấm vải choàng.

909.Quay về lại nhà với một mảnh vải, người ấy đã nói với tôi điều này: “Nàng hãy tùy hỷ việc phước lớn lao; tấm vải choàng đã đưc dâng đến đức Phật.”

910.Khi ấy, được hài lòng xiết bao tôi đã chắp tay lên nói lời tùy hỷ rằng: “Phu quân à, tấm vải choàng là đã khéo đưc dâng đến đức Phật tối thưng như thế ấy.”

911.Được an vui, trở nên gắn bó, trong khi luân hồi cõi này cõi khác, người ấy đã trở thành đức vua, vị lãnh chúa ở thành phố Bārāasī đáng yêu.

912.Khi ấy, tôi trở thành chánh hậu của người ấy, là tối cao trong đám n nhân. Tôi đã được cảm tình rất mực của người ấy do sự yêu mến trưc đây của chồng.

913.Sau khi nhìn thấy tám vị Lãnh Đo Đc Giác đang đi quanh để khất thực, người ấy đã trở nên hoan hỷ và đã dâng vật thực vô cùng giá trị.

914.Sau khi thỉnh mời lần nữa, người ấy đã thực hiện mái che bằng châu báu. Lọng che bằng vàng (rộng) trăm cánh tay đã được những người thợ rèn kiến thiết.

915.Sau khi đã hướng dẫn tất cả các ngài ấy tiến vào các chỗ ngồi bằng vàng, được tịnh tín người ấy đã tự tay mình dâng cúng vật thí đến các ngài ấy.

916.Khi ấy, tôi cũng đã dâng cúng vật thí ấy cùng với đức vua xứ Kāsi. Tôi đã được sanh ra ở Bārāasī lần nữa, tại ngôi làng nhỏ ngoại thành.

917.(Sanh ra) ở trong gia đình giàu có thịnh vưng, người ấy được an lạc, có em trai. Tôi đã là người vợ vô cùng chung thủy của người anh cả.

918.Sau khi nhìn thấy vị Phật Đc Giác, người em gái của chồng tôi đã dâng phần cơm đến vị ấy, và đã thuật lại khi chồng tôi đi đến.

919.Chồng tôi không hoan hỷ với việc dâng cúng. Do đó, tôi đã lấy lại phần cơm ấy từ bình bát rồi đã trao cho chồng. Chồng tôi đã dâng cúng (phần cơm ấy) một lần nữa đến chính vị Phật ấy.

920.Khi ấy, tôi đã quăng b đi phn cơm y và đã đc ác đối với đức Phật. Tôi đã dâng bình bát ấy chứa đy bùn đến vị Phật như thế ấy.

921.Về vật cho cũng như việc nhận giống như là vật không trong sạch và đóa hoa sen, khi y tôi đã nhìn khuôn mặt có tâm bình thản và đã vô cùng chấn động.

922.Sau khi nhận lại bình bát, tôi đã làm sạch bằng chất thơm, rồi với tâm tịnh tín, tôi đã chứa đầy với bơ lng và đã dâng lên một cách cung kính.

923.Ở bất cứ nơi đâu tôi đưc sanh ra, tôi đều có sắc xinh đẹp do sự bố thí và có mùi hôi do lời nói và do thái độ không phải phép đối với đức Phật.

924.Lần khác, khi ngôi bảo tháp của đấng Chiến Thắng Kassapa đang được hoàn tất, được hoan hỷ tôi đã dâng cúng phiến ngói cao quý bằng vàng.

925.Tôi đã tẩm phiến ngói ấy bằng hương thơm sanh lên từ bốn nguồn. Tôi đã được thoát khỏi khuyết điểm về mùi hôi thối và đã được thành tựu tốt đẹp về toàn bộ các phần thân thể.

926.(Chồng tôi) đã cho thực hiện bảy ngàn cái đĩa bằng chính bảy loại châu báu, được chứa đy bơ lng và hàng ngàn tim đèn.

927.Với tâm ý thanh tịnh, sau khi đã đt (tim đèn) vào và thp sáng, người ấy đã xếp thành bảy hàng nhằm mục đích cúng dưng đến bậc Bảo Hộ Thế Gian.

928.Khi ấy, tôi cũng có phần đóng góp đặc biệt trong việc phước thiện ấy. Người ấy đã được sanh ra ở xứ Kāsi lần nữa, được nổi danh là Sumitta.

929.Tôi đã là vợ của người ấy, đưc an vui, được gắn bó, được yêu quý. Khi ấy, người ấy cũng đã dâng đến vị Hiền Trí Độc Giác tấm vải choàng bền chắc.

930.Tôi đã hoan hỷ về việc bố thí tối thưng và cũng đã có phần trong việc ấy. Vị ấy cũng đã sanh ra lần nữa trong quốc đ Kāsi thuộc dòng dõi Koliya.

931.Khi ấy, cùng với năm trăm người con trai dòng Koliya, người ấy đã hộ đ năm trăm vị Phật Độc Giác.

932.Và sau khi đã làm hài lòng (chư Pht Đc Giác) trong ba tháng, người ấy đã dâng ba y. Khi ấy, đi theo lộ trình của nghiệp phước thiện tôi đã là vợ của người ấy.

933.Từ nơi ấy chết đi, người ấy đã trở thành vị vua tên là Nanda có danh tiếng vĩ đi. Tôi cũng đã trở thành chánh hậu của người ấy, có sự thành tựu về tất cả các điều dục lạc.

934.Và khi ấy, người ấy đã trở thành vị lãnh chúa Brahmadatta. Khi ấy, những người con trai của bà Padumavatī đã trở thành các bậc Hiền Trí Độc Giác.

935.Người ấy đã hộ đ năm trăm vị không thiếu vị nào cho đến hết cuộc đi. Chư Pht Đc Giác đã cư ngụ tại vườn hoa của đức vua rồi đã Niết Bàn, và người ấy đã cúng dường.

936.Và sau khi cho xây dựng các ngôi bảo tháp, cả hai chúng tôi đã xuất gia. Sau khi tu tập các vô lưng (tâm), chúng tôi đã đi đến cõi Phạm Thiên.

937.Từ nơi ấy chết đi, người ấy đã khéo được sanh ra tại Mahātittha (tên) là Pipphalāyana Mẹ là Sumanadevī, cha là người Bà-la-môn dòng tộc Kosiya.

938.Tôi đã là người con gái của vị Bà-la-môn Kapila, mẹ là Sucīmatī, ở tại kinh thành Sāgalā trong xứ sở Madda.

939.Sau khi tạo ra tôi với hình tượng bằng vàng khối, ngưi cha đã gã tôi cho bậc trí Kassapa là ngưi đã kiêng cử các dục.

940.Lần nọ, con người có lòng bi mẫn ấy đã đi xem xét công việc làm. Sau khi nhìn thấy các sinh vật bị những loài như là quạ, v.v... ăn tht, người ấy đã bị động tâm.

941.Và tôi ở nhà, sau khi nhìn thấy những cây mè mọc lên trong sự thiêu đốt của ánh nắng mặt trời và loài sâu bọ bị các con quạ ăn thịt, khi ấy tôi đã có sự động tâm.

942.Lúc bấy giờ, con người trí tuệ ấy đã xuất gia. Tôi đã xuất gia theo vị ấy. Tôi đã sống theo hạnh du sĩ ngoại đo trong năm năm.

943.Đến khi bà Gotamī ngưi nuôi dưng đấng Chiến Thắng đã được xuất gia, khi ấy tôi đã đi theo bà y và đã được chỉ dạy bởi đức Phật.

944.Trong thời gian không bao lâu tôi đã thành tựu phẩm vị A-la-hán. Ôi, tính chất bạn hữu tốt lành đối với vị Kassapa vinh quang!

945.Kassapa là con trai, là người thừa tự của đức Phật, khéo đưc định tĩnh, nhìn thấy được cõi trời và địa ngục, và là vị đã biết đưc đời sống trưc đây.

946.Rồi (vị ấy) đã đt đến sự diệt tận của sự sanh, là vị hiền trí được hoàn hảo về thắng trí, với ba sự hiểu biết ấy trở thành vị Bà-la-môn có tam minh.

947.Tương t như thế ấy, Bhaddā Kāpilānī là vị ni có tam minh, có sự dứt bỏ Tử Thần, mang thân mạng cuối cùng sau khi đã chiến thắng Ma Vương cùng vi đạo quân binh.

948.Sau khi nhìn thấy điều tai hại ở thế gian, cả hai chúng tôi đã xuất gia. Chúng tôi đây có các lậu hoặc đã cạn kiệt, đã được huấn luyện, đã có được trạng thái mát mẻ, đã được Niết Bàn.

949.Các phiền não của tôi đã đưc thiêu đốt, tất cả các hữu đã được xóa sạch. Sau khi cắt đứt sự trói buộc như là con voi cái (đã được cởi trói), tôi sống không còn lậu hoặc.

950.Quả vậy, tôi đã thành công mỹ mãn, đã thành tựu tam minh, đã thực hành lời dạy của đức Phật trong sự hiện tiền của đức Phật tối tợng.

951.Bốn (tuệ) phân tích, tám giải thoát, và sáu thắng trí đã đưc tôi đắc chứng; tôi đã thực hành lời dạy của đức Phật.

 Tỳ khưu ni Bhaddākāpilānī đã nói lên những lời kệ này như thế ấy.

Ký sự về trưởng lão ni Bhaddākāpilānī là phần thứ bảy.

--ooOoo--



Phiên bản thư viện demo v4.5 [Tipiṭaka Tiếng Việt] Theravada