595.Trưc đây mt trăm ngàn kiếp, vị Lãnh Đạo, đấng Chiến Thắng tên Padumuttara, bậc thông suốt về tất cả các pháp đã hiện khởi.

596.Khi ấy, tôi đã được sanh ra ở tại Haṃsavatī, trong gia đình triệu phú được rạng rỡ với vô số loại châu báu, tôi đã được thừa hưởng lạc thú lớn lao.

597.Tôi đã đi đến bậc Đại Hùng ấy và đã lắng nghe lời giảng Pháp. Sau đó, với niềm tịnh tín sanh khởi tôi đã đi đến nương ta vào đấng Chiến Thắng.

598.Sau đó, đấng Lãnh Đo đã tán dương vị tỳ khưu ni có sự tự tin về các điu được phép hoặc không được phép và khiêm tốn như thế ấy, là đứng đầu trong số các vị ni thông suốt về Luật.

599.Khi ấy, với tâm hoan hỷ, có sự mong muốn về vị thế ấy, tôi đã thỉnh mời đấng Thập Lực, vị Lãnh Đạo Thế Gian cùng với hội chúng.

600.Sau khi đã dâng vật thực trong bảy ngày, tôi đã dâng cúng ba y, rồi đã quỳ xuống đê đầu ở bàn chân và đã nói lời nói này:

601.Bạch đấng Anh Hùng, vị ni đã đưc Ngài tán dương vào tám ngày trưc đây. Bch đấng Lãnh Đạo, nếu được thành tựu con sẽ trở thành như vị ni ấy.”

602.Khi ấy, bậc Đo Sư đã nói với tôi rằng: “Này cô gái hiền thục, chớ lo ngại, hãy yên tâm. Trong thời vị lai xa xôi, nàng sẽ đt đưc điu mong ước ấy.

603.Vào một trăm ngàn kiếp về sau này, bậc Đo Sư tên Gotama, thuộc dòng dõi, xuất thân gia tộc Okkāka sẽ xuất hiện ở thế gian.

604.Nàng sẽ trở thành nữ Thinh Văn của bậc Đo Sư, là người thừa tự Giáo Pháp của vị(Phật) ấy, là chánh thống, được tạo ra từ Giáo Pháp, có tên là Paṭācārā.”

605.Khi ấy, tôi đã được hoan hỷ. Với tâm từ mẫn, tôi đã phục vụ đấng Chiến Thắng, bậc Lãnh Đạo Thế Gian cùng với hội chúng từ đó cho đến hết cuộc đời.

606.Do nghiệp ấy đã được thực hiện tốt đẹp và do các nguyện lực của tác ý, sau khi từ bỏ thân nhân loại tôi đã đi đến cõi trời Đạo Lợi.

607.Ở vào kiếp Bhadda này, trong số các vị đang thuyết giảng đã hiện khởi đấng cao quý tên Kassapa, thuộc dòng dõi, có danh tiếng vĩ đại, là thân quyến của đấng Phạm Thiên.

608.Khi ấy, có vị quân vương là đức vua xứ Kāsi tên Kikī ở tại kinh thành Bārāasī là người hộ độ của bậc Đại Ẩn Sĩ.

609.Tôi đã là người con gái thứ ba của vị (vua) ấy, được nổi danh là Bhikkhunī. Sau khi lắng nghe Giáo Pháp của đấng Chiến Thắng cao cả, tôi đã xin xuất gia.

610.611. Cha đã không cho phép chúng tôi. Khi ấy, là những người con gái của đc vua khéo đưc nuôi dưng, chúng tôi đã thực hành Phạm hạnh của người thiếu nữ ngay tại nhà trong hai chục ngàn năm, không xao lãng. Được hoan hỷ, bảy ngưi con gái đã vui thích trong việc hộ đ đức Phật.

611.Samaṇī, Samaaguttā, Bhikkhunī, Bhikkhudāsikā, Dhammā, luôn cả Sudhammā nữa, và Saṅghadāsikā là thứ bảy.

612.Tôi, Uppalavaṇṇā, Khemā, Bhikkhunī hiền thục, Kisāgotamī, Dhammadinnā, và Visākhā là thứ bảy (vào thời hiện tại).

613.Do các nghiệp ấy đã được thực hiện tốt đẹp và do các nguyện lực của tác ý, sau khi từ bỏ thân nhân loại tôi đã đi đến cõi trời Đạo Lợi.

614.Và trong kiếp sống cuối cùng hiện nay, tôi đã đưc sanh vào gia đình triệu phú sung túc, thịnh vượng, có tài sản lớn lao ở trong kinh thành Sāvatthī.

615.Và khi đã đt đến tuổi thanh xuân, tôi đã bị tác động của sự suy tầm. Sau khi gặp ngưi đàn ông quê mùa, tôi đã bỏ đi cùng vi người ấy.
617. Tôi đã sanh ra một ngưi con trai, đứa thứ nhì còn ở trong bụng của tôi. Khi ấy, tôi đã ước muốn mãnh liệt rằng: “Ta sẽ gặp lại cha mẹ.”

616.Người chồng của tôi đã không bằng lòng. Khi ấy, trong lúc người ấy đi vắng, mỗi một mình tôi đã rời khỏi ngôi nhà đ đi đến kinh thành Sāvatthī.

617.Sau đó, người chồng của tôi đã đi đến và đã gặp tôi ở trên đường lộ. Khi ấy, có cơn gió vô cùng khủng khiếp sanh lên do nghiệp của tôi đã ào tới.

618.Và có trận mưa ln đã xuất hiện vào lúc lâm bồn của tôi. Khi ấy, người chồng đã ra đi vì mục đích củi gỗ (đ sưởi ấm) và đã bị chết bởi con rắn.

619.Khi ấy, do đau đớn vì đã sanh đ, không người bảo hộ, tôi đã trở nên khốn khổ. Trong khi đi đến chỗ trú ngụ của gia đình, tôi đã nhìn thấy con sông cạn bị tràn ngập.

620.Sau khi ẳm lấy đa bé tôi đã lội qua, và còn mỗi một đứa ở bờ bên kia. Tôi đã đt đa con trai thơ dại nằm xuống vì việc mang đứa kia sang.

621.Tôi đã quay trở lại. Có con chim ưng đã tha đi đứa nhỏ đang kêu khóc và dòng nưc đã cuốn trôi đa kia; tôi đây đã bị xâm chiếm bởi sầu muộn.

622.Sau khi đi đến thành Sāvatthī, tôi đã nghe rằng những ngưi thân đã chết. Khi ấy, bị dằn vặt bởi nỗi sầu muộn, bị xâm chiếm bởi nỗi sầu muộn lớn lao, tôi đã nói rằng:

623.Cả hai ngưi con trai đã lìa đời, chồng của tôi đã bị chết ở trên đường, mẹ cha và ngưi em trai đã được thiêu chung ở một giàn hỏa táng.”

624.Khi ấy, trở nên ốm yếu, vàng vọt, không người bảo hộ, tâm ý thê lương, trong lúc đi quanh qun đó đây tôi đã nhìn thấy đng Điều Phục Nhân.

625.Sau đó, bc Đo Sư đã nói với tôi rằng: “Này con gái, chớ khóc than, hãy bình tâm. Con hãy tìm kiếm lại chính mình. Sao con lại buồn đau một cách vô ích?

626.Không có những ngưi con trai, không có người cha, cũng không có những người thân trong việc bảo vệ. Đối với ngưi đã bị khuất phục bởi sự chết, sự bảo vệ ở những người thân là không có.”[28]

627.Sau khi lắng nghe lời nói ấy của bậc Hiền Trí, tôi đã chứng đạt quả vị thứ nhất. Sau khi xuất gia không bao lâu, tôi đã thành tựu phẩm vị A-la-hán.

628.Là người thực hành theo lời dạy của đng Đo Sư, tôi có năng lực về các thần thông, về thiên nhĩ giới, tôi biết được tâm của người khác.

629.Tôi biết đưc đời sống trưc đây, thiên nhãn được thanh tịnh. Sau khi quăng bỏ tất cả các lậu hoặc, tôi được thanh tịnh, hoàn toàn không ô nhiễm.

630.Sau đó, trong sự hiện diện của đng Toàn Tri, tôi đã học toàn bộ về Luật cùng tất cả phần chi tiết và đã trình bày đúng theo như thế.

631.Hoan hỷ về đức hạnh ấy, đấng Chiến Thắng đã thiết lập tôi vào vị thế tối thắng rằng: “Chỉ mỗi một mình Paṭācārā là đng đầu trong số các vị ni thông suốt về Luật.”

632.Bậc Đo Sư đã được tôi phục vụ, lời dạy của đức Phật đã được tôi thực hành, nhiệm vụ nặng nề đã đưc đặt xuống, lối dẫn đi tái sanh đã được xóa tan.

633.Vì mục đích nào tôi đã rời khỏi gia đình xuất gia vào đời sống không gia đình, mục đích ấy tức là sự đoạn tận tất cả các sự trói buộc đã đưc tôi đt đến.

634.Các phiền não của tôi đã đưc thiêu đốt, tất cả các hữu đã được xóa sạch. Sau khi cắt đứt sự trói buộc như là con voi cái (đã được cởi trói), tôi sống không còn lậu hoặc.

635.Quả vậy, tôi đã thành công mỹ mãn, đã thành tựu tam minh, đã thực hành lời dạy của đức Phật trong sự hiện tiền của đức Phật tối thượng.

636.Bốn (tuệ) phân tích, tám giải thoát, và sáu thắng trí đã đưc tôi đắc chứng; tôi đã thực hành lời dạy của đức Phật.

Tỳ khưu ni Paṭācārā đã nói lên những lời kệ này như thế ấy.

Ký sự về trưởng lão ni Paṭācārā là phần thứ mười.

TÓM LƯỢC CỦA PHẨM NÀY

Vị ni Ekuposathikā, luôn cả vị ni Saḷalā, rồi vị ni Modakā, vị ni Ekāsanā, vị ni Pañcadīpā, vị ni Naḷamālī, và vị ni Gotamī, vị ni Khemā, vị ni Uppalavaṇṇā, và tỳ khưu ni Paṭācārā, (tổng cộng) là năm trăm câu kệ ngôn và chín câu nữa cũng được thêm vào đó.

Phẩm Một Lần Trai Giới là phẩm thứ nhì.

--ooOoo--

[1] Là Sumedhā và hai người bạn gái là Dhanañjanī và Khemā được đề cập ở phần dưới.

[2] kāmabhavādayo sabbe nava bhavā mayā samūhatā (ApA. 295) = Toàn bộ chín (9) hữu như là dục hữu, (sắc hữu, vô sắc hữu), v.v... đã được tôi xóa sạch.

[3] Mekhalādāyikā nghĩa là “người nữ dâng cúng sợi dây thắt lưng.”

[4] Maṇḍapadāyikā nghĩa là “người nữ dâng cúng mái che.

[5] Saṅkamanatthā nghĩa là “người nữ thành lập con đường đi.”

[6] Naḷamālikā nghĩa là “người nữ có tràng hoa sậy.”

[7] Kinnara, kinnarī: loài nhân điểu nam hoặc nữ, có thân người đầu chim (ND).

[8] Ekapiṇḍapātadāyikā nghĩa là “người nữ dâng cúng một phần vật thực.”

[9] Kaṭacchubhikkhādāyikā nghĩa là “người nữ dâng cúng muỗng vật thực.”

[10] Sattuppalamālikā nghĩa là “người nữ có bảy đóa hoa sen xanh.”

[11] Pañcadīpikā nghĩa là “người nữ có năm ngọn đèn.”

[12] Udakadāyikā nghĩa là “người nữ dâng cúng nước.”

[13] Từ udakahārikā được dịch sát nghĩa là người vận chuyển nước (đội, gánh, mang, vác, v.v...).

[14] Ekuposathikā nghĩa là “người nữ có một lần thực hành Bát quan trai giới.”

[15] Salalapupphikā nghĩa là “người nữ có bông hoa salala.”

[16] Modakadāyikā nghĩa là “người nữ dâng cúng thịt vò viên.”

[17] Ekāsanadāyikā nghĩa là “người nữ dâng cúng một chỗ ngồi.”

[18] Pañcadīpadāyikā nghĩa là “người nữ dâng cúng năm ngọn đèn.” Câu chuyện này tương tợ câu chuyện số 9 của Pañcadīpikā (người nữ có năm ngọn đèn).

[19] Sālamālikā nghĩa là “người nữ có tràng hoa sālā, tương tợ câu chuyện số 5.

[20] Mahāpajāpatigotamī nghĩa là “người nữ lãnh tụ vĩ đại thuộc dòng họ Gotama.”

[21] “ānando nir-ānando” là phép chơi chữ , không thể diễn tả bằng tiếng Việt.

[22] Xem Mahānidānasuttaṃ - Kinh Đại Duyên, Trường Bộ II.

[23] Dịch theo các bản Pāḷi của Thái, Miến, Anh: tadā taṃ phullapivinaṃ ...

[24] Xem Mahānidānasuttaṃ - Kinh Đại Duyên, Trường Bộ II.

[25] Tứ bộc: dục bộc, hữu bộc, kiến bộc, vô minh bộc.

[26] tepi patthesuṃ = các vị ấy cũng đã ước nguyện (?), vì thế đã dịch theo Tam Tạng Thái Lan: patthesiṃ tesu puttesu.

[27] Các câu kệ từ 581 đến 587 được thấy ở Trưởng Lão Ni Kệ, Phẩm Mười Một - Tập Mười Hai Kệ, miêu tả cuộc đối thoại giữa Ma Vương và vị trưởng lão ni.

[28] Kinh Pháp Cú, câu 288.



Phiên bản thư viện demo v4.5 [Tipiṭaka Tiếng Việt] Theravada