416.Trưc đây mt trăm ngàn kiếp, đấng Chiến Thắng tên Padumuttara, bậc Hữu Nhãn về tất cả các pháp, đấng Lãnh Đo đã hiện khởi.

417.Khi ấy, tôi đã được sanh ra ở tại Haṃsavatī trong gia đình triệu phú được rạng rỡ với nhiều loại châu báu, tôi đã được thừa hưởng lạc thú lớn lao.

418.Tôi đã đi đến đng Đại Hùng ấy và đã lắng nghe lời giảng Pháp. Sau đó, với niềm tịnh tín sanh khởi tôi đã đi đến nương ta vào đấng Chiến Thắng.

419.Và tôi cũng đã yêu cầu mẹ cha rồi đã thỉnh mời đng Hưng Đạo cùng với các vị Thinh Văn và đã cung ứng vật thực trong bảy ngày.

420.Và khi bảy ngày đã trôi qua, đng Điều Phục Nhân đã thiết lập vị tỳ khưu ni đng đầu trong số các vị ni có đại trí tuệ vào vị thế tối thắng.

421.Được hoan hỷ sau khi lắng nghe điều ấy, tôi đã thể hiện sự tôn kính đến bậc Đại Ẩn Sĩ ấy lần nữa rồi đã nằm dài xuống và đã phát nguyện vị thế ấy.

422.Do đó, đấng Chiến Thắng ấy đã nói với tôi rằng: “Điều phát nguyện của nàng (sẽ) được thành tựu. Sự tôn kính đã được nàng thực hiện ở nơi Ta cùng với Hội Chúng là có quả báu vô lượng.

423.Vào một trăm ngàn kiếp về sau này, bậc Đo Sư tên Gotama, thuộc dòng dõi, xuất thân gia tộc Okkāka sẽ xuất hiện ở thế gian.

424.Nàng sẽ có tên là Khemā, là người thừa tự Giáo Pháp của vị (Phật) ấy, là chánh thống, được tạo ra từ Giáo Pháp, và sẽ đt được vị thế tối thắng.

425.Do nghiệp ấy đã được thực hiện tốt đẹp và do các nguyện lực của tác ý, sau khi từ bỏ thân nhân loại tôi đã đi đến cõi trời Đạo Lợi.

426.Mệnh chung từ nơi y, tôi đã đi đến cõi trời Dạ Ma, từ đó đã đi đến cõi trời Đẩu Suất, và từ đó đến cõi Hóa Lạc Thiên, rồi từ đó đến cõi Tha Hóa Tự Tại.

427.Do mãnh lực của nghiệp ấy, ở bất cứ nơi nào tôi sanh ra, tôi đu đã được thiết lập vào ngôi chánh hậu của các vị vua ở chính tại các nơi ấy.

428.Từ nơi ấy chết đi (sanh) vào thân nhân loi, tôi đã được thiết lập vào ngôi chánh hậu của các đấng Chuyển Luân Vương và các vị vua cai quản các lãnh thổ.

429.Tôi đã thọ hưởng sự thành đạt ở giữa chư Thiên và loài ngưi, đã được an vui ở tất cả các nơi, và đã luân hồi trong nhiều kiếp.

430.Trưc đây chín mươi mốt kiếp, đấng Lãnh Đạo Thế Gian Vipassī là vị có ánh mắt thu hút, vị thấy rõ tất cả các pháp đã hiện khởi.

431.Tôi đã đi đến gặp bậc Lãnh Đạo Thế Gian, đng Điều Phục Nhân ấy. Sau khi lắng nghe Giáo Pháp cao quý, tôi đã xuất gia vào đời sống không gia đình.

432.Sau khi thực hành Phạm hạnh trong Giáo Pháp của đấng Anh Hùng ấy mưi ngàn năm, tôi đã gắn bó vào thiền tập, có sự nghe nhiều (học rộng).

433.Là vị thiện xảo về các biểu hiện của duyên (tùy thuận sanh khởi), có niềm tự tín ở bốn Sự Thật, là người khôn khéo, là vị thuyết giảng hay, là người thực hành theo lời dạy của bậc Đo Sư.

434.Từ nơi ấy chết đi, tôi đã đt đến cõi trời Đẩu Suất, là tiên nữ có danh tiếng. Tại nơi y, tôi đã vượt trội những người khác nhờ vào quả báu của việc thực hành Phạm hạnh.

435.Ở bất cứ nơi nào tôi đưc sanh ra, tôi đều có nhiều của cải, nhiều tài sản, là người có sự sáng suốt, có sắc đẹp, và có luôn cả hội chúng đã được rèn luyện nữa.

436.Do nghiệp ấy có sự gắn bó với Giáo Pháp của đấng Chiến Thắng, tất cả các sự thành tựu của tôi đu đt được dễ dàng và là các niềm yêu quý của tâm.

437.Thậm chí ở bất cứ nơi đâu tôi sanh đến, bất cứ người nào là chồng của tôi đều không khinh miệt tôi nhờ vào quả báu tu tập của tôi.

438.Ở vào kiếp Bhadda này, trong số các vị đang thuyết giảng đã hiện khởi đấng cao quý tên Koṇāgamana, có danh tiếng vĩ đại, là thân quyến của đấng Phạm Thiên.

439.Khi ấy, tôi là hậu duệ của một gia đình vô cùng giàu có ở tại Bārāasī. Dhanañjāni, Sumedhā, và tôi nữa là ba người.

440.Là những người cộng sự trong việc bố thí trưc đây và là nhng người tạo lập, chúng tôi đã xác định trú xá là của Hội Chúng rồi đã dâng cúng tu viện đến Hội Chúng.

441.Từ nơi ấy chết đi, tất cả chúng tôi đã đi đến cõi Đạo Lợi, đã đt đưc tư cách cao tột về danh vọng, và tương t y như thế ở giữa loài người.

442.Chính ở vào kiếp này, trong số các vị đang thuyết giảng đã hiện khởi đấng cao quý tên Kassapa, thuộc dòng dõi, có danh tiếng vĩ đại, là thân quyến của đấng Phạm Thiên.

443.Khi ấy, có vị quân vương là đức vua xứ Kāsi tên Kikī ở tại kinh thành Bārāasī là người hộ độ của bậc Đại Ẩn Sĩ.

444.Tôi đã là người con gái lớn nhất của vị ấy, được nổi danh là Samaṇī. Sau khi lắng nghe Giáo Pháp của đấng Chiến Thắng cao cả, tôi đã xin xuất gia.

445.446. Cha đã không cho phép chúng tôi. Khi ấy, là những người con gái của đức vua khéo đưc nuôi dưng, chúng tôi đã thực hành Phạm hạnh của người thiếu nữ ngay tại nhà trong hai chục ngàn năm, không xao lãng. Được hoan hỷ, bảy ngưi con gái đã vui thích trong việc hộ đ đức Phật.

446.Samaṇī, Samaaguttā, Bhikkhunī, Bhikkhudāsikā, Dhammā, luôn cả Sudhammā nữa, và Saṅghadāsikā là thứ bảy.

447.Tôi, Uppalavaṇṇā, Paācārā, Kuṇḍalā, Kisāgotamī, Dhammadinnā, và Visākhā là thứ bảy (vào thời hiện tại).

448.Có lần nọ đấng Mặt Trời của nhân loại ấy thuyết giảng Giáo Pháp tuyệt vời. Sau khi lắng nghe bài Kinh Mahānidāna[22] tôi đã học thuộc lòng bài Kinh ấy.

449.Do các nghiệp ấy đã được thực hiện tốt đẹp và do các nguyện lực của tác ý, sau khi từ bỏ thân nhân loại tôi đã đi đến cõi trời Đạo Lợi.

450.Và trong kiếp cuối cùng hiện nay, tôi là ngưi con gái vui tính, đáng mến, đáng yêu ca đức vua Madda ở tại kinh thành Sāgalā.

451.Cùng với sự việc đã được sanh của tôi là trong kinh thành ấy đã có sự thái bình. Vì thế, tên “Khemā” đã được sanh lên cho tôi phát xuất từ công đức (ấy).

452.Khi đt đến tuổi thanh xuân, tôi đưc tô điểm bởi sắc đẹp và sự mặn mà, khi ấy ngưi cha đã dâng tôi cho đc vua Bimbisāra.

453.Tôi đã là người nữ vô cùng yêu quý của vị (vua) ấy. Thích thú trong việc trau chuốt xác thân, tôi đã không tỏ ra rộng lưng đối với những lời nói về sự xấu xa của các sắc thân.

454.Khi ấy, với sáng kiến nhằm giúp đ cho tôi, đc vua Bimbisāra đã ngợi khen về Veḷuvana(Trúc Lâm) và đã bảo các ca sĩ ca hát cho tôi nghe rằng:

455.Chúng tôi quan niệm rằng: ‘Ngưi nào chưa nhìn thấy Veḷuvana đáng yêu, chốn ngụ cư ca đấng Thiện Thệ, thì người ấy chưa nhìn thấy (vườn hoa) Nandana (của cõi trời).

456.Ngưi nào đã nhìn thấy Veḷuvana là (vườn hoa) hoan lạc Nandana của nhân loại, người ấy đã nhìn thấy (vườn hoa) Nandana vô cùng hoan lạc của vị Thiên Vương.

457.Chư Thiên sau khi ri (vườn hoa) Nandana ngự xuống mặt đt và đã nhìn thấy Veḷuvana đáng yêu thì vô cùng sửng sốt và không còn tiếc nuối nữa.

458.(Veḷuvana) đã đưc sanh lên do phước báu của đc vua, đưc làm đẹp nhờ vào phước báu của đức Phật, có ai là người thuật lại một cách trọn vẹn về tổng thể các đức tính tốt đẹp của khu vườn ấy?

459.Sau khi nghe được sự thành công của khu rừng ấy, đối với tôi là có sự quyến rũ vào tai. Lúc bấy giờ, có lòng mong muốn nhìn thấy khu vườn ấy tôi đã trình lên đức vua.

460.Và khi ấy, vị lãnh chúa ấy đã sốt sắng ra lệnh cho đoàn tùy tùng đông đo đưa tôi đi để nhìn xem khu vườn ấy (và đã nói với tôi rằng):

461.Hỡi nàng là của cải vĩ đại, nàng hãy đi, hãy nhìn xem khu rừng đem lại sự bổ ích cho cặp mắt, là nơi luôn luôn chói sáng với sự vinh quanh, được rực rỡ với hào quang của đấng Thiện Thệ.”

462.Và vào lúc đấng Hiền Trí đã đi vào kinh thành Giribbaja để khất thực, đúng vào lúc y tôi đã đi đến để nhìn thấy khu rừng.

463.Khi ấy, khu rừng cây trải dài ấy[23] được rì rào tiếng vo ve của ong vò vẽ các loại, được phối hợp với tiếng rù rù của loài chim cu, được nhảy múa bởi đám chim công.

464.(Khu rừng cây) có ít tiếng động, không bị phân tán, đưc điểm tô bằng các đưng kinh hành khác nhau, được rải rác với các cụm liêu cốc, được nổi bậc với các hành giả cao quý.

465.Trong khi dạo quanh, tôi đã suy nghĩ rằng: “Mắt ta có được thành quả.” Cũng tại nơi y, tôi đã nhìn thấy vị tỳ khưu trẻ gắn bó (thiền tập) và đã suy gẫm rằng:

466.Vị này ở vào độ tuổi rất trẻ và được phú cho dáng vóc dễ thương như là mùa xuân lại chịu ở trong khu rừng dẫu cho là đáng yêu như vầy.

467.Ngồi ở gốc cây, đầu cạo, đắp y hai lớp, tham thiền, quả nhiên vị tỳ khưu này đã từ bỏ khoái lạc sanh lên từ đi tượng (bên ngoài).

468.Phải chăng con người vô cùng hiền thiện này nên thọ hưởng (ngũ) dục cho thoải mái với cuộc đời tại gia, sau này về già mới nên thực hành Giáo Pháp?

469.Sau khi biết được rằng “Suññaka” là hương thất, là chỗ ngụ của đấng Chiến Thắng, tôi đã đi đến gần và đã nhìn thấy đấng Chiến Thắng tợ như mặt trời đang mọc lên.

470.(Tôi đã nhìn thấy đấng Chiến Thắng) ngồi mỗi một mình một cách an lạc, đang được quạt bởi người nữ quý phái. Sau khi nhìn thấy tôi đã suy gẫm như vầy: “Bậc Nhân Ngưu này không có quê kệch.”

471.Người thiếu nữ ấy có diện mạo (sáng) như vàng, có khuôn mt và đôi mt như đóa sen, có môi đ, có răng màu hoa nhài, có sự thu hút con tim và ánh mắt.

472.Có đôi tai lấp lánh khuyên vàng, có ngực dạng bầu bầu, có eo thon, có mông đp, có đùi thân chui, và có đồ trang sức xinh xắn.

473.Với chiếc áo khoác ngoài lên đôi vai gợi tình, với y phục tinh khiết màu xanh, được sở hữu tính chất phụ nữ với hình dáng (nhìn) không thể nào thỏa mãn.

474.Sau khi nhìn thấy nàng ấy, tôi đã suy nghĩ như vầy: “Ôi, nàng này tuyệt đp, ta chưa từng nhìn thấy trưc đây bằng (cặp) mắt này.”

475.Kế đó, bị chế ngự bởi sự già, nàng ấy (trở nên) có dung nhan tàn tạ, khuôn mặt chảy dài, răng sứt mẻ, đầu bạc, miệng có nước dãi, dơ dáy.

476.(Nàng ấy) có tai bị co rút, mắt trắng (đục), bộ ngực xấu xí đong đưa, tất cả các bộ phận cơ thể bị nhăn nheo chảy xệ, thân thể nổi đầy gân.

477.(Nàng ấy) có lưng bị còng, có gậy là bạn, vô cùng nhợt nhạt, gầy còm, trong lúc run rẩy bị té nhào, chốc chốc lại bị hụt hơi.

478.Do đó, tôi đã có sự chấn động, kinh ngạc, lông dựng đứng: “Thật là xấu hổ cho xác thân bất tịnh là nơi mà những kẻ ngu hứng thú!

479.Lúc bấy giờ, sau khi nhìn thấy (tôi có) tâm bị chấn động, đng Đại Bi, bậc Thiện Thệ với tâm phấn chấn đã nói lên những lời kệ này:

480.Này Khemā, hãy nhìn xem thân thể bệnh hoạn, bất tịnh, hôi thối đang tiết ra, đang rò rỉ lại được hứng thú đối với những kẻ ngu.  

481.Nàng hãy tu tập tâm cho được chuyên nhất khéo tập trung về đề mục bất mỹ, niệm hãy đưc hưng đến thân, nàng hãy có nhiều sự nhàm chán.

482.Thân này như thế nào thì xác kia như vy, xác kia như thế nào thì thân này như vậy. Nàng hãy lìa bỏ sự mong muốn về thân ở bên trong lẫn bên ngoài.

483.Và nàng hãy tu tập về vô tướng, hãy dứt bỏ ngã mạn ngũ ngầm. Từ đó, có được sự lãnh hội về ngã mạn nàng sẽ sống thanh tịnh.

484.Những người bị đắm nhiễm ái dục rơi vào dòng chảy, tương t như con nhện sa vào mạng lưi được tạo nên bởi chính nó, sau khi cắt đứt luôn cả điều ấy, xuất gia, từ bỏ dục lạc, trở thành những ngưi vô tư l.”

485.Kế đó, sau khi biết đưc tôi có tâm đã được sẵn sàng, đng Điều Phục Nhân đã thuyết giảng bài Kinh Mahānidāna[24] nhằm hướng dẫn cho tôi.

486.Sau khi lắng nghe bài kinh tuyệt vời ấy, tôi đã tưởng nhớ về quá khứ. Tôi được an tịnh ngay khi đang đứng tại nơi y, tôi đã làm cho Pháp nhãn được thanh tịnh.

487.Ngay khi ấy, tôi đã cúi xuống ở nơi bàn chân của bậc Đại Hiền Trí nhằm mục đích bày tỏ tội lỗi, và đã nói lời nói này:

488.Bạch đấng Toàn Tri, con kính lễ Ngài! Bạch đấng hành bi mẫn, con kính lễ Ngài! Bạch đng đã vượt qua luân hồi, con kính lễ Ngài! Bạch đấng ban cho sự Bất Tử, con kính lễ Ngài!

489.Con đã lao theo sự nắm bắt tà kiến, bị lầm lạc trong ái dục, nhờ vào Ngài với phương pháp đúng đn con đã được dẫn dắt, được thỏa thích trong sự rèn luyện.

490.Do việc không nhìn thấy các bậc Đại Hiền Trí như thế ấy, các chúng sanh không có phước phần phải gánh chịu khổ đau lớn lao trong biển cả luân hồi.

491.Vào lúc con đã không nhận ra Ngài là chốn nương nhờ của thế gian, là bậc không dục vọng đã đt đến tận cùng của sự chết, là sự lợi ích cận kề, con xin bày tỏ lỗi lầm ấy.

492.Bị đm say xác thân, con đã không đến gần bậc có lợi ích lớn, vị có sự bố thí cao quý, hoài nghi là: ‘Không có lợi ích,’ con xin bày tỏ lỗi lầm ấy.”

493.Khi ấy, trong lúc rưới rắc sự Bất Tử đến tôi, bậc Đi Bi, đấng Chiến Thắng, vị có giọng nói vang ngọt ngào, đã nói rằng: “Này Khemā, hãy đứng lại.”

494.Khi ấy, sau khi đã đê đu đảnh lễ và đã thực hiện việc nhiễu quanh vị ấy, tôi đã ra đi. Sau khi nhìn thấy đấng quân vương, tôi đã nói lời nói này:

495.Ôi vị khuất phục kẻ thù, phương pháp đúng đn này đã được suy tính bởi bệ hạ. Do ước muốn nhìn thấy khu rừng mà bậc Hiền Trí, vị ban phát Niết Bàn, đã được nhìn thấy.

496.Tâu bệ hạ, nếu ngài vui thích thiếp sẽ xuất gia trong Giáo Pháp của vị như thế ấy. Nhờ vào lời nói của bậc Hiền Trí, thiếp đã nhàm chán sắc thân.”

Tụng phẩm thứ nhì.

498.Khi ấy, vị lãnh chúa ấy đã chắp tay lên và nói rằng: “Này hiền thê, trẫm cho phép nàng. Cầu chúc sự xuất gia được thành tựu đến nàng.”

499.Và sau khi xuất gia, khi ấy đã được nửa tháng, sau khi nhìn thấy sự sáng lên của ngọn đèn và sự diệt tắt, tôi có tâm bị chấn động.

500.Nhàm chán tất cả các hành, được rành rẽ về biểu hiện của duyên (tùy thuận sanh khởi), sau khi đã vượt qua bốn dòng nước lũ,[25] tôi đã đt được phẩm vị A-la-hán.

501.Tôi đã có năng lực về thần thông, về thiên nhĩ giới, và tôi cũng đã có năng lực về trí biết tâm của người khác.

502.Tôi biết đưc đời sống trưc đây, thiên nhãn được thanh tịnh, tất cả các lậu hoặc đã được cạn kiệt, giờ đây không còn tái sanh nữa.

503.Trí tuệ hoàn toàn thanh tịnh của tôi về ý nghĩa, về pháp, về ngôn từ, và tương t y như thế về phép biện giải là được thành tựu trong Giáo Pháp của đức Phật.

504.Tôi được thiện xảo về các (pháp) thanh tịnh, tự tin trong vấn đề tranh luận, biết về phương thức của vi diệu pháp, và đã đt đưc năng lực ở Giáo Pháp.

505.Sau đó, đưc đức vua (Pasenadi) chủ quản xứ Kosala hỏi các câu hỏi khôn khéo về vấn đề vật thực, tôi đã giải thích đúng theo bản thể.

506.Sau đó, vị vua ấy đã đi đến gặp đấng Thiện Thệ và đã hỏi lại. Các điều ấy đã được tôi giải thích như thế nào thì đức Phật đã giải thích y như thế ấy.

507.Đấng Chiến Thắng, bậc Tối Thượng Nhân hoan hỷ về đức hạnh ấy đã thiết lập tôi vào vị thế tối thắng là “Vị đng đầu các vị có đại tuệ” trong số các vị tỳ khưu ni.

508.Các phiền não của tôi đã đưc thiêu đốt, tất cả các hữu đã được xóa sạch. Sau khi cắt đứt sự trói buộc như là con voi cái (đã được cởi trói), tôi sống không còn lậu hoặc.

509.Quả vậy, tôi đã thành công mỹ mãn, đã thành tựu tam minh, đã thực hành lời dạy của đức Phật trong sự hiện tiền của đức Phật tối thượng.

510.Bốn (tuệ) phân tích, tám giải thoát, và sáu thắng trí đã đưc tôi đắc chứng; tôi đã thực hành lời dạy của đức Phật.

Tỳ khưu ni Khemā đã nói lên những lời kệ này như thế ấy.

Ký sự về trưởng lão ni Khemā là phần thứ tám.

--ooOoo--



Phiên bản thư viện demo v4.5 [Tipiṭaka Tiếng Việt] Theravada