226.Một thời, bậc Quang Đăng của thế gian, đng Điều Phục Nhân trú tại thành Vesālī, khu Đại Lâm, ở ngôi nhà mái nhọn, trong giảng đường xinh xắn.

227.Khi ấy, người dì ruột của đấng Chiến Thắng là tỳ khưu ni Mahāgotamī đã cư ngụ tại tu viện của tỳ khưu ni được xây dựng ở tại nơi ấy, trong thành phố đáng yêu.

228.Khi đang  nơi thanh vắng cùng với năm trăm vị tỳ khưu ni đã được giải thoát, có điều suy tầm đã khởi đến tâm của vị ni ấy như vầy:

229.Ta sẽ không thể chứng kiến sự viên tịch Niết Bàn của đức Phật, hoặc của hai vị Tối Thưng Thinh Văn, ca Rāhula, Ānanda, vā Nanda.

230.Trước khi có thể buông bỏ thọ hành rồi thành tựu Niết Bàn, ta cần đưc đấng Bảo Hộ Thế Gian, bậc Đại Ẩn Sĩ cho phép.

231.Sự suy tầm của năm trăm vị tỳ khưu ni cũng như thế, chính điều suy tầm này cũng đã khởi đến các vị ni như là Khemā, v.v...

232.Khi ấy, đã có sự lay động của trái đất, tiếng trống của cõi trời đã vang lên. Các Thiên nhân cư ngụ ở ni viện đã bị dày vò bởi sầu muộn. Tại nơi ấy, trong khi than vãn với niềm bi mẫn họ đã tuôn rơi những giọt nước mắt.

233.Cùng với các vị (Thiên nhân) ấy, các vị tỳ khưu ni bn đã đi đến gặp bà Gotamī. H đã quỳ xuống đê đầu ở bàn chân và đã nói lời nói này:

234.Thưa ni sư, chúng tôi đã tưi nước ở tại nơi ấy rồi đã đi đến nơi thanh vắng. Trái đất có sự vững chải đã bị lay động, tiếng trống của cõi trời đã được vang lên, và những tiếng than khóc đã đưc nghe đến. Bà Gotamī, chẳng lẽ có sự việc gì hay sao?

235.Khi ấy, bà Gotamī đã kể lại mọi việc theo như đã được suy tầm. Các vị ni ấy cũng đã kể lại mọi việc theo như đã được suy tầm:

236.Thưa ni sư, thưa vị có sự hành trì tốt đẹp, nếu Niết Bàn tối thắng thù diệu được bà thích thú, thì tất cả chúng tôi cũng sẽ Niết Bàn với sự chấp thuận của đức Phật.

237.Chúng tôi sẽ cùng nhau rời khỏi ngôi nhà và rời khỏi luôn cả sự hiện hữu, chúng tôi sẽ cùng nhau đi đến thành phố Niết Bàn tối thượng.

238.Bà Gotamī đã nói rằng: “Ta sẽ nói gì đây đối với những ngưi đang đi đến Niết Bàn?” Khi ấy, bà Gotamī cùng với tất cả các vị ni ấy đã rời khỏi chỗ cư ngụ của các tỳ khưu ni.

239.Xin chư Thiên đang ngự tại trú xá hãy thông cảm cho ta. Đây là sự nhìn thấy ni viện lần cuối cùng của ta.

240.Nơi nào sự già hoặc sự chết, sự gần gũi với những gì không yêu thích, sự xa lìa với những gì yêu thích là không có, thì ta nên đi đến nơi y là nơi không bị tạo tác.”

241.Nghe được lời nói ấy, những vị tỳ khưu ni ca đấng Thiện Thệ có tham ái chưa được xa lìa bị dằn vặt bởi sầu muộn nên đã than vãn rằng: “Than ôi, chúng tôi có phước báu kém cỏi.

242.Trú xứ này của các tỳ khưu ni thiếu vắng các vị ấy (sẽ) trở nên trống không. Các vị tỳ khưu ni ca đấng Chiến Thắng (sẽ) không còn được nhìn thấy, ví như các vì sao không còn được nhìn thấy vào ban ngày.

243.Bà Gotamī đi đến Niết bàn cùng với năm trăm v tương t như sông Gagā cùng với năm trăm dòng sông chảy về biển cả.”

244.Sau khi nhìn thấy bà Gotamī đang đi  trên đường, các nữ cư sĩ thành tín đã di ra khỏi nhà rồi đã quỳ xuống ở hai bàn chân (của bà) và đã nói điều này:

245.Hỡi vị có tài sản vĩ đi, xin người hoan hỷ. Xin chớ lìa bỏ chúng con (trở thành) không người bảo hộ. Xin người chớ quyết định Niết Bàn,” họ đã than van ầm ĩ như thế.

246.Nhằm mục đích xóa đi nỗi sầu muộn của họ, bà Gotamī đã nói với giọng nói ngọt ngào rằng: “Này các con, than khóc đã đủ rồi, hôm nay đây là thi đim vui cười của các con.

247.Khổ đã được ta biết toàn diện, nhân của Khổ đã được ta dứt bỏ, sự Diệt Tận đã được ta tác chứng, và Đo cũng đã được ta thực hành khéo léo.

Tụng phẩm thứ nhất.

248.Bậc Đo Sư đã được ta phục vụ, lời dạy của đức Phật đã được ta thực hành, nhiệm vụ nặng nề đã đưc đặt xuống, lối dẫn đi tái sanh đã được xóa tan.

249.Vì mục đích nào ta đã rời khỏi gia đình xuất gia vào đời sống không gia đình, mục đích ấy tức là sự đoạn tận tất cả các sự trói buộc đã đưc ta đt đến.

250.Này các con, đức Phật và Chánh Pháp không bị thiếu sót của Ngài vẫn còn tồn tại vào thời điểm Niết Bàn của ta, chớ có khóc than cho ta.

251.Koṇḍañña, Ānanda, Nanda, v.v..., v Rāhula chiến thắng còn tại tiền, hội chúng là được an lạc, hòa hợp, còn đối với các ngoại đạo thì niềm kiêu hãnh đã bị tiêu tan.

252.Danh tiếng của dòng tộc Okkāka với sự tiêu diệt Ma Vương đã đưc giương cao. Này các con, chẳng phải chính lúc này là thời điểm cho mục đích Niết Bàn của ta hay sao?

253.Điu ước nguyện của ta đưc nung đúc t lâu hôm nay được thành tựu. Này các con, giờ đây là thi điểm của những tiếng trống vui mừng, việc gì với những giọt nước mắt của các con?

254.Nếu có lòng thương mến đối với ta, và nếu có lòng bi mẫn, tất cả các con hãy thể hiện sự tinh tấn kiên cố cho sự tồn tại của Chánh Pháp.

255.Khi được ta thỉnh cầu, đấng Toàn Giác đã ban cho sự xuất gia một cách lưỡng lự. Do điu đó, ta đã hoan hỷ như thế nào thì các con hãy thuận theo điều ấy như thế.”

256.Sau khi dặn dò như thế, bà Gotamī dn đầu các vị tỳ khưu ni đã đi đến đảnh lễ đức Phật, rồi đã nói lời nói này:

257.Bạch đấng Thiện Thệ, con là mẹ của Ngài. Và bạch đấng Anh Hùng, Ngài là cha của con. Bạch đấng Bảo Hộ, Ngài là người ban cho niềm an lạc trong Chánh Pháp. Bạch ngài Gotama, con đã được sanh ra bởi Ngài.

258.Bạch đấng Thiện Thệ, hình hài và thân xác này của Ngài đã được lớn mạnh là nhờ con. Còn Pháp thân không thể phê phán của con đã đưc tăng trưởng là nhờ vào Ngài.

259.Nhờ con, Ngài đã được uống nước sữa làm dịu đi sự khao khát trong chốc lát. Nhờ Ngài, con cũng đã được uống chính dòng sữa Giáo Pháp thanh tịnh vô cùng tận.

260.Bạch đng Đại Hiền Trí, trong việc dưng nuôi chăm sóc của con Ngài không có nợ nần. Mong sao cho các phụ nữ có lòng mong mỏi con trai có thể đt đưc ngưi con trai như thế này.

261.Mẹ của các vị vua như đc vua Mandhātu, v.v... là ở trong biển cả của hiện hữu. Này con trai, ta đã bị chìm đắm, nhờ Ngài ta đã vượt qua khỏi đi dương của hiện hữu.

262.Đối với hàng phụ nữ, danh xưng ‘Hoàng hậu mẹ của đức vua’ là dễ dàng đt được. Còn danh xưng ‘Người mẹ của đức Phật’ là đt đưc vô cùng khó khăn.

263.Và bạch đấng Anh Hùng, nhờ Ngài con đã đt đưc điu ước nguyện ấy của con. Với con toàn bộ điều ấy dầu nhỏ bé hay lớn lao đu đã được tròn đ.

264.Con muốn từ bỏ xác thân này, con muốn viên tịch Niết Bàn. Bạch đấng Anh Hùng, bậc Lãnh Đạo, vị Đoạn Tận Khổ Đau, xin Ngài hãy cho phép con.

265.Xin Ngài hãy duỗi ra (hai) bàn chân mềm dịu như hoa sen đưc điểm tô bằng những cây căm bánh xe và các ngọn cờ, con sẽ thể hiện sự tôn kính đến Ngài với lòng yêu mến đối với người con trai.

266.Bạch đấng Lãnh Đạo, xin Ngài hãy thể hiện rõ ràng thân thể tợ như khối vàng, sau khi thực hiện việc chiêm ngưỡng thân thể của Ngài, con sẽ đi về chốn an tịnh.”

267.Đấng Chiến Thắng đã khiến cho người dì nhìn thấy thân thể được thành tựu ba mươi hai tướng trạng và đưc điểm tô với những hào quang xinh xắn trông giống như ánh mặt trời non trẻ từ đám mây chiều.

268.Sau đó, bà Gotamī đã đê đầu ở lòng bàn chân được in dấu hình bánh xe, trông tợ như đóa hoa sen nở rộ có ánh sáng của mặt trời buổi bình minh.

269.Con xin đảnh lễ đấng mặt trời của nhân loại, vị tiêu biểu của dòng dõi mặt trời. Đây là lần tử biệt cuối cùng của con, con không gặp Ngài nữa rồi.

270.Bạch đấng Cao Cả của thế gian, hàng nữ nhân gây nên mọi điều xấu xa rồi chết đi. Và bch đấng Thể Hiện lòng bi mẫn, nếu con có điều sai trái gì xin Ngài tha thứ.

271.Và bạch đng Nhân Ngưu, con đã liên tục cầu xin sự xuất gia cho hàng phụ nữ, trong việc này nếu con có điều sai trái xin Ngài hãy thứ tha điều ấy.

272.Bạch đng Đại Hùng, các tỳ khưu ni đã được con dạy dỗ với sự cho phép của Ngài. Bạch đấng Chúa Tể về kham nhẫn, trong trường hợp này nếu có vấn đề huấn luyện kém cỏi, xin Ngài hãy thứ tha điều ấy.”

273.ức Phật đáp lại rằng): “Này ngưi có đức hạnh là vật trang điểm, có thể kham nhẫn những điều gọi là không thể kham nhẫn thì còn có việc gì? Ta sẽ nói điều gì hơn na đối với bà là ngưi đang tiến đến Niết Bàn?

274.Khi hội chúng tỳ khưu của Ta là thanh tịnh không khiếm khuyết đang tiến bưc để ra khỏi thế gian này, ví như qung trăng ra đi vào lúc rng đông sau khi nhìn thấy sự biến mất dần của các vì thiên thể.

275.Khi ấy, các vị tỳ khưu ni kia đã hướng vai phải nhiễu quanh đấng Chiến Thắng cao cả, trông giống như các vì sao theo gót mặt trăng di chuyn xung quanh núi Sumeru. Sau đó h đã quỳ xuống đê đầu ở bàn chân (đức Phật) rồi đng lên chiêm ngưỡng khuôn mặt (của Ngài).

276.Mắt chưa có sự thỏa mãn đối với việc nhìn ngắm Ngài, tai chưa có sự thoả mãn đối với việc được (nghe) Ngài thuyết giảng, chỉ riêng một mình tâm của con đã đt được sự thoả mãn ấy nhờ vào hương vị của Giáo Pháp.

277.Bạch đấng Cao Quý của loài người, trong khi Ngài tuyên thuyết ở hội chúng, những người nào nhìn thấy khuôn mặt của Ngài là vị đánh đổ sự kiêu căng của những ngưi đối chất, những người ấy là hữu duyên.

278.Bạch đấng có lóng (tay chân) dài, những người nào sẽ khom mình ở bàn chân xinh đẹp có gót chân nhô ra, bạch bậc Thưng Đức, những người ấy cũng là hữu duyên.

279.Bạch đng Thượng Nhân, những người nào sẽ lắng nghe những lời nói ngọt ngào, vui vẻ, tiêu diệt lỗi lầm, và có lợi ích của Ngài, những người ấy cũng là hữu duyên.

280.Bạch đng Đại Hùng, với sự nhiệt tâm trong việc lễ bái bàn chân (Ngài), con đã vượt qua khu rừng rậm luân hồi nhờ vào lời thiện thuyết của đấng Quang Vinh, con là hữu duyên với Ngài.

281.Sau đó, vị ni có hạnh kiểm tốt đẹp ấy cũng đã thông báo đến hội chúng tỳ khưu. Và sau khi đảnh lễ các vị Rāhula, Ānanda, Nanda, bà đã nói điều này:

282.Mẹ nhờm gớm cái xác thân tợ như chỗ trú của rắn độc, là chỗ ngụ của bệnh tật, bị chồng chất khổ đau, là chốn lai vãng của sự già và sự chết,

283.đầy rẫy nhiễm ô và tội lỗi, bị lệ thuộc vào ngưi khác, không năng động. Vì thế Mẹ muốn Niết Bàn. Này các con trai, hãy thông cảm (cho Mẹ).”

284.Vị Nanda và bậc hiền thiện Rāhula, có sầu muộn đã lìa, không còn lậu hoặc, bền vững, không bị lay động, chắc chắn, kiên quyết, đã suy xét về lẽ tự nhiên rằng:

285.Thật là xấu hổ cho (xác thân) bị tạo tác, chao đảo, không có lõi, tương t như cây chuối, giống như trò xảo thuật hay ảo ảnh, ngắn ngủi, không bền vững.

286.Ngay cả bà Gotamī này, đối với đấng Chiến Thắng là nời dì, là ngưi nuôi dưng Đức Phật, rồi cũng đi đến sự tử vong; tất cả pháp hữu vi là vô thường.”

287.Và lúc bấy giờ, ngài Ānanda, vị có lòng thương mến đối với đấng Chiến Thắng, là bậc hữu học, đã bị dằn vặt vì sầu muộn. Tại đó, trong khi tuôn trào những giọt lệ, vị ấy rên rĩ nỗi tiếc thương:

288.Hỡi ôi! Bà Gotamī đi đến chốn thanh tịnh. Hiển nhiên, chẳng bao lâu nữa đức Phật cũng đi đến tịch diệt ví như ngọn lửa hết nguồn nhiên liệu.”

289.Bà Gotamī đã nói với vị Ānanda đang than vãn ấy như vầy: “Này vị sâu sắc như biển cả về việc nghe (học hỏi). Này vị nhiệt tâm trong việc hầu cận đức Phật.

290.Này con trai, chớ miệt mài thương tiếc khi thời đim cưi vui đã đến đối với con. Này con trai, nơi nương nhờ của ta là Niết Bàn đã đến.

291.Này con yêu, được cầu khẩn bởi con (đức Phật) đã cho phép sự xuất gia đến chúng tôi. Này con trai, chớ có phiền muộn, sự nỗ lực của con là có kết quả.

292.Đạo lộ ấy thậm chí không được nhìn thấy bởi các vị ngoại đo sư trưc đây li được biết đến bởi những bé gái hiền thiện bảy tuổi.

293.Này vị hộ trì Giáo Pháp của đức Phật, (giờ là) lần nhìn thấy cuối cùng của con. Này con trai, nơi nào khi đã đi đến là không được nhìn thấy thì ta đi đến nơi ấy.”

294.Có lần nọ đấng Lãnh Đạo cao cả của thế gian bị hắt hơi trong khi đang thuyết giảng Giáo Pháp, khi ấy với lòng thương tưng tôi đã nói lời mong mỏi rằng:

295.Bạch đng Đại Hùng, xin Ngài hãy sống thọ. Bạch bậc Đại Hiền Trí, xin Ngài hãy tồn tại trọn kiếp. Vì lợi ích của tất cả thế gian, xin Ngài hãy là vị Thiên Thần bất lão.”

296.Với tôi là người nữ có lời nói như thế về điều ấy, đức Phật ấy đã nói điều này: “Này Gotamī, chư Pht không nên đưc tôn vinh như thế, giống như cách bà đã tôn vinh.”

297.Bạch đấng Toàn Tri, vậy thì các đng Như Lai là nên đưc tôn vinh như thế nào? Chư Pht là không nên đưc tôn vinh như thế nào? Được hỏi, xin Ngài hãy giảng cho con về điều ấy.”

298.Bà hãy nhìn xem các vị đệ tử là có sự hòa hợp, có sự ra sức tinh tấn, có tính khẳng quyết, có sự nỗ lực mạnh mẽ một cách bền bĩ; ấy là sự tôn vinh chư Phật.”

299.Từ nơi y, sau khi đi về ni viện, chỉ có một mình tôi đã suy nghiệm rằng: “Đấng Bảo Hộ, vị đi đến tận cùng Tam Giới hài lòng về tập thể có sự hòa hợp.

300.Vậy thì ta sẽ Niết Bàn, ta chớ chứng kiến sự băng hoại ấy.” Sau khi suy nghĩ như thế, tôi đã diện kiến bậc Đệ Nhất Ẩn Sĩ.

301.Tôi đã thông báo thời điểm viên tịch Niết Bàn của tôi đến bậc Hưng Đo. Do đó, Ngài đã đồng ý rằng: “Này Gotamī, bà hãy biết lấy thời điểm.”

302.Các phiền não của con đã đưc thiêu đốt, tất cả các hữu đã được xóa sạch. Sau khi cắt đứt sự trói buộc như là con voi cái (đã được cởi trói), con sống không còn lậu hoặc.

303.Quả vậy, con đã thành công mỹ mãn, đã thành tựu tam minh, đã thực hành lời dạy của đức Phật trong sự hiện tiền của đức Phật tối thượng.

304.Bốn (tuệ) phân tích, tám giải thoát, và sáu thắng trí đã đưc con đắc chứng; con đã thực hành lời dạy của đức Phật.”

305.Này Gotamī, những kẻ ngu có khuynh hướng không chú tâm và trì trệ trong việc lãnh hội Giáo Pháp, bà hãy thị hiện thần thông vì lợi ích cho sự từ bỏ tà kiến của những kẻ ấy.”

306.Khi ấy, với sự cho phép của đức Phật, bà Gotamī đã quỳ xuống (đảnh lễ) đấng Toàn Giác rồi đã bay lên không trung và đã thị hiện nhiều loại thần thông.

307.308. Là một, bà đã trở thành nhiều, và tương t như thế là nhiều trở thành một. Bà đã hiện ra, biến mất, đi xuyên qua vách tường, xuyên qua ngọn núi không bị chướng ngại. Bà cũng đã chìm vào trong trái đt. Bà đã đi  trên nưc mà không làm chao đng như là  trên đất liền.

308.Khi ấy, bà đã di chuyển với thế kiết già tương t như loài chim ở trên không trung. Bằng thân bà đã thể hiện sự tác đng đến tận chỗ ngụ của đấng Phạm Thiên.

309.Sau khi đã làm ngọn núi Sineru thành cây cán lọng và đã làm đi địa cầu thành cái lọng che, bà đã xoay ngược lại đến tận gốc rễ. Trong khi cầm (lọng che), bà đã đi kinh hành  hư không.

310.Và bà đã làm thế gian mù mịt khói đúng vào lúc mọc lên của sáu mặt trời. Bà đã gây rối ren bằng những tràng hoa rực lửa như là thế gian vào lúc hoại kiếp.

311.Về tảng đá khổng lồ Mucalinda, núi Meru, núi Mandāra, và núi Daddara, bà đã nắm lấy toàn bộ bằng một nắm tay như là (nắm lấy) những hạt cải.

312.Với đu ngón tay bà đã che khuất mặt trời cùng với mặt trăng. Bà đã nắm giữ một ngàn mặt trăng và mặt trời như là (nắm giữ) tràng hoa đi đầu.

313.Bà đã nắm giữ nước của bốn bể bằng một bàn tay, đã làm đ mưa trn mưa lớn có hình dáng của đám mây đen vào lúc tận thế.

314.Bà đã biến hóa thành đấng Chuyển Luân Vương cùng với tùy tùng ở bề mặt của không trung. Bà đã khiến cho nhìn thấy loài kim-sỉ-điu, loài voi, và loài sư t đang gầm rống.

315.Chỉ một mình, bà đã biến hóa thành hội chúng tỳ khưu ni vô số kể sau đó lại làm cho biến mất chỉ còn một mình, rồi đã nói với bậc Hiền Trí rằng:

316.Bạch đng Đại Hùng, bạch bậc Hữu Nhãn, người dì cùa Ngài là người nữ thực hành theo lời dạy của Ngài và đã đt được lợi ích cho bản thân, giờ (xin) đảnh lễ ở bàn chân (Ngài).”

317.Sau khi thị hiện nhiều thể loại thần thông, vị ni ấy đã từ bề mặt của không trung đáp xung đảnh lễ đng Quang Đăng của thế gian rồi đã ngồi xuống ở một bên.

318.Bạch đng Đại Hiền Trí, con đây đã được một trăm hai mươi tuổi tính từ lúc sanh. Bạch đấng Anh Hùng, chừng ấy là vừa đủ. Bạch đấng Lãnh Đạo, con sẽ Niết Bàn.”

319.Khi ấy, toàn thể hội chúng ấy vô cùng sửng sốt đã chắp tay lên nói rằng: “Thưa ni sư, làm thế nào bà đã trở thành vị có thần thông và sự nỗ lực không thể sánh bằng?

320.Trưc đây mt trăm ngàn kiếp, vị Lãnh Đo, đấng Chiến Thắng tên Padumuttara, bậc Hữu Nhãn về tất cả các pháp đã hiện khởi.

321.Khi ấy, tôi đã được sanh ra ở tại Haṃsavatī, trong gia đình vị quan cận thần đưc đy đủ mọi thứ tiện nghi, sung túc, thịnh vưng, có đại tài sản.

322.Có lần nọ, tôi đã dẫn đầu nhóm nữ tỳ cùng người cha với đoàn tùy tùng đông đo đi đến đng Nhân Ngưu ấy.

323.Tợ như v (Thiên Vương) Vāsava đang làm mưa, đấng Chiến Thắng bậc không còn lậu hoặc, rực rỡ với quầng hào quang giống như mặt trời của mùa thu, đang làm đổ xuống cơn mưa Pháp.

324.Sau khi nhìn thấy, tôi đã làm cho tâm được tịnh tín và đã lắng nghe (Giáo Pháp) khéo được thuyết giảng của đấng Lãnh Đạo nhân loại ấy trong khi Ngài đang thiết lập vị tỳ khưu ni Mātucchā vào vị thế hàng đầu.

325.Sau khi lắng nghe, tôi đã dâng cúng đại thí và nhiều vật dụng trong bảy ngày đến bậc Tối Thưng Nhân như thế ấy cùng với hội chúng (của Ngài).

326.Tôi đã nằm dài xuống ở bàn chân (Ngài) và đã phát nguyện vị thế ấy. Sau đó, v Đệ Nhất Ẩn Sĩ đã nói với đoàn tùy tùng đông đảo rằng:

327.Người nữ nào đã chăm lo ba ăn đến đấng Lãnh Đạo Thế Gian cùng với hội chúng trong bảy ngày, Ta sẽ tán dương người nữ ấy. Các người hãy lắng nghe Ta nói.

328.Vào một trăm ngàn kiếp về sau này, bậc Đo Sư tên Gotama, thuộc dòng dõi, xuất thân gia tộc Okkāka sẽ xuất hiện ở thế gian.

329.(Người nữ này) sẽ trở thành nữ Thinh Văn của bậc Đo Sư, là người thừa tự Giáo Pháp của vị (Phật) ấy, là chánh thống, được tạo ra từ Giáo Pháp, có tên là Gotamī.

330.Người nữ này sẽ là người dì nuôi dưỡng mạng sống của vị Phật ấy và sẽ đt được vị thế hạng nhất trong số các tỳ khưu ni kỳ cựu.” 

331.Sau khi nghe đưc điều ấy, tôi đã trở nên hoan hỷ. Khi ấy, tôi đã hộ đ đấng Chiến Thắng bằng các vật dụng cho đến hết cuộc đi, sau đó đã từ trần.

332.Được sanh lên giữa chư Thiên thuộc cõi Đạo Lợi có các sự dồi dào về mọi dục lạc, tôi đã vượt trội các vị (Trời) khác về mưi phương diện:

333.Là các sắc, các thinh, các hương, các vị, và các xúc, luôn cả tuổi thọ và sắc đẹp, sự an lạc và luôn cả danh tiếng nữa.

334.Với ưu thế như thế ấy, tôi đã nổi bật và sáng chói. Tôi đã là hoàng hậu yêu dấu của vị Trời Đế Thích ở tại nơi ấy.

335.Trong khi trôi nổi luân hồi, bị dời chuyển dưi tác động của nghiệp, tôi đã được sanh ra ở trong ngôi làng dân nô lệ thuộc lãnh địa của đc vua Kāsi.

336.Khi ấy, có không dưi năm trăm người nô lệ cư ngụ ở nơi ấy. Tại đó, ngưi nào là đng đầu của tất cả (nhóm ngưi), tôi đã trở thành vợ của người ấy.

337.Năm trăm bậc Tự Chủ đã đi vào làng để khất thực. Sau khi nhìn thấy các vị ấy, tôi cùng với tất cả quyến thuộc đã vui mừng.

338.Chúng tôi cùng với những người chồng đã xây dựng năm trăm cc liêu, đã hộ độ trong bốn tháng, đã dâng cúng ba y, và đã trở nên hoan hỷ.

339.Từ nơi ấy chết đi, chúng tôi cùng với những người chồng đã đi đến cõi trời Đạo Lợi. Và trong kiếp sống cuối cùng hiện nay, chúng tôi đã được sanh ra ở thành phố Devadaha.

340.Cha của tôi là Añjana thuộc dòng Sakya, mẹ của tôi là (hoàng hậu) Sulakkhaṇā. Sau đó, tôi đã đi đến nhà (làm vợ) của (đức vua) Suddhodana ở thành Kapilavatthu.

341.Những người còn lại đã được sanh vào gia tộc Sakya, đã đi đến nhà (làm vợ) của các vị dòng Sakya. Là ưu việt trong số tất cả, tôi đã là người bảo mẫu của đấng Chiến Thắng.

342.Người con trai của tôi sau khi lìa bỏ ra đi đã trở thành đức Phật, bậc ng Đạo. Về sau, tôi đã xuất gia cùng với năm trăm v (công nương).

343.Cùng với các công nương dòng Sakya, tôi đã chạm đến sự an lạc của Niết Bàn. Khi ấy, những ngưi nào đã là chồng của chúng tôi trong cuộc sống trưc đây, – 

344.– những người cùng thực hiện pớc báu, những ngưi đã tạo ra thời điểm trọng đi, đưc đấng Thiện Thệ thương tưởng những người ấy đã chạm đến phẩm vị A-la-hán.

345.Khi ấy, các vị tỳ khưu ni kia đã ngự lên bề mặt của không trung. Có đại thần lực, các vị ni đã chói sáng như là các vì sao đã được quần tụ lại.

346.Các vị ni đã thị hiện nhiều loại thần thông, tương t như những thợ vàng khéo được huấn luyện đã làm ra nhiều mẫu mã trang sức đối với kim loại vàng đã được chế biến.

347.Khi ấy, các vị ni đã thị hiện các phép lạ đa dạng nhiều loại và đã làm hoan hỷ bậc Hiền Trí, vị thuyết giảng hàng đầu, cùng với đồ chúng.

348.Sau khi từ không trung đáp xuống, các vị ni đã đảnh lễ bậc Ẩn Sĩ tối thưng. Được sự cho phép của đấng Tối Thượng Nhân, các vị ni đã ngồi xuống đúng theo vị thế (nói rằng):

349.Ôi! Bạch đấng Anh Hùng, bà Gotamī là người có lòng từ mẫn đối với tất cả chúng con. Được sống nhờ vào những phước báu của Ngài, chúng con đã đt được sự đoạn tận các lậu hoặc.

350.Các phiền não của chúng con đã đưc thiêu đốt, tất cả các hữu đã được xóa sạch. Sau khi cắt đứt sự trói buộc như là nhng con voi cái (đã được cởi trói), chúng con sống không còn lậu hoặc.

351.Quả vậy, chúng con đã thành công mỹ mãn, đã thành tựu tam minh, đã thực hành lời dạy của đức Phật trong sự hiện tiền của đức Phật tối thượng.

352.Bốn (tuệ) phân tích, tám giải thoát, và sáu thắng trí đã đưc chúng con đắc chứng; chúng con đã thực hành lời dạy của đức Phật.

353.Bạch đng Đại Hiền Trí, chúng con đã có năng lực về các loại thần thông và thiên nhĩ giới, chúng con đã có năng lực về trí biết tâm của người khác.

354.Chúng con biết đưc đời sống trưc đây, thiên nhãn được thanh tịnh, tất cả các lậu hoặc đã được cạn kiệt, giờ đây không còn tái sanh nữa.

355.Bạch đng Đại Hùng, trí của chúng con về ý nghĩa, về pháp, về ngôn từ, và về phép biện giải được phát hiện và được thành tựu trong sự hiện diện của Ngài.

356.Bạch đấng Lãnh Đo, Ngài đã hành sử đối với chúng con bằng các tâm từ ái. Bạch đng Đại Hiền Trí, xin Ngài cho phép về việc Niết Bàn đến tất cả (chúng con).

357.Đấng Chiến Thắng đã nói rằng: “Khi các nàng nói: ‘Chúng con sẽ Niết Bàn,’ như thế thì Ta còn nói điều gì nữa. Vậy thì giờ đây, các nàng hãy suy nghĩ về thời điểm của các nàng.”

358.Khi ấy, các vị tỳ khưu ni y đng đầu là Gotamī, v.v... đã đảnh lễ đấng Chiến Thắng. Rồi các vị ni ấy đã từ chỗ ngồi ấy đứng dậy và đã ra đi.

359.Bậc Anh Hùng ấy, vị Lãnh Đạo cao cả của thế gian cùng với đi chúng đông đo đã cùng đi theo người dì cho đến tận cổng.

360.Khi ấy, bà Gotamī đã cúi xuống ở các bàn chân của đấng quyến thuộc thế gian, là sự đảnh lễ bàn chân lần cuối cùng với tất cả các vị ni kia.

361.Đây là lần nhìn thấy đấng Bảo Hộ Thế Gian lần cuối cùng của con. Con sẽ không còn nhìn thấy lại khuôn mặt của Ngài là nguồn phát sanh lên sự Bất Tử.

362.Và bạch đng Anh Hùng, (đây) không phải là sự đảnh lễ của con ở bàn chân vô cùng mềm mại của ngài. Bạch đấng Cao Cả của thế gian, con sẽ sờ nắn (chúng); hôm nay con đi đến nơi an tịnh.

363.Có gì với sắc tướng này của Ngài khi pháp đã được thấy đúng theo bản thể? Toàn bộ sắc tướng này chỉ là hữu vi, không được thoải mái, là tạm bợ.”

364.Sau khi đi về tu viện tỳ khưu ni của mình cùng với các vị ni ấy, bà Gotamī đã xếp chân bán già ngồi xuống ở trên chỗ ngồi cao nhất.

365.Khi ấy, các nữ cư sĩ mến chuộng Phật Pháp ở tại nơi y, sau khi nghe được tin tức về bà ấy, đã đi đến đảnh lễ ở bàn chân (của bà).

366.Bị dằn vặt vì sầu muộn, họ đã đấm vào ngực bằng những bàn tay. Rồi giống như là các dây leo bị chặt đứt gốc rễ, họ đã ngã xuống ở trên đất trong khi nức nở tiếng khóc lóc thảm thương rằng:

367.Hỡi người ban bố sự nương nhờ, hỡi người bảo hộ, xin ngưi đừng từ bỏ chúng con mà đi đến nơi an tịnh. Toàn thể người nữ chúng con quỳ xuống đê đầu thỉnh cầu (người).”

368.Trong khi xoa đầu của người nữ cư sĩ có sự nỗ lực cao nhất, có tín tâm, có trí tuệ trong số ấy, bà Gotamī đã nói lời nói này:

369.Này các con, thôi đủ rồi bởi vì thất vọng là sự xoay vần theo mưu kế của Ma Vương. Tất cả pháp hữu vi là vô thường, sự chia lìa và sự tử vong là không chừng đổi.”

370.Sau đó, bà y đã giã từ những người nữ ấy rồi đã thể nhập thiền tối thượng bậc thứ nhất, thứ nhì, thứ ba, và luôn cả bậc thứ tư.

371.Tương t như thế, theo tuần tự bà đã thể nhập (các bậc thiền) không gian xứ, thức xứ, vô sở hữu, phi tưởng.

372.Bà Gotamī đã thể nhập các bậc thiền theo chiều nghịch về lại bậc thiền thứ nhất, rồi từ đó tiến đến bậc thứ tư.

373.Từ đó bà đã xuất ra và đã Niết Bàn tợ như ngọn lửa của cây đèn cạn dầu. Đã có sự chuyển động dữ dội của trái đt, sét đã giáng xuống từ bầu trời.

374.Các tiếng trống đã đưc vang lên, chư Thiên đã than vãn, và cơn mưa bông hoa từ bầu trời đã đổ xuống trái đất.

375.Ngọn núi chúa Meru cũng đã rung đng tương t như người vũ công ở giữa sàn nhảy. Chính vì sầu muộn, biển cả đã có sự gào thét vô cùng thảm thiết.

376.Vào giây phút ấy, chư Thiên, các Long Vương, các Atula, và đấng Phạm Thiên bị chấn đng đã thốt lên rằng: “Các pháp hữu vi quả thật là vô thưng, theo như thế ấy vị ni này đã đi đến sự hoại diệt.

377.Và các vị ni nào là những người thực hành theo lời dạy của bậc Đo Sư đã tháp tùng vị ni này, các vị ni ấy cũng không còn chấp thủ, như là ngọn lửa của cây đèn đã bị lụi tàn.”

378.Và đã có sự than vãn rằng: “Chao ôi! Các sự hội tụ có sự chia lìa là điểm kết thúc. Chao ôi! Tất cả pháp hữu vi là vô thường. Chao ôi! Cuộc sống có sự tiêu hoại là điểm kết thúc.”  

379.Sau đó, chư Thiên và đấng Phạm Thiên (đã) tiến hành công việc thuận theo pháp thế gian, thích hợp thời điểm, rồi đã đi đến gần vị Đệ Nhất Ẩn Sĩ.

380.Khi ấy, bậc Đo Sư đã bảo ngài Ānanda là vị có sự học ví như biển cả rằng: “Này Ānanda, hãy đi thông báo đến các tỳ khưu về việc Niết Bàn của mẹ.”

381.Khi ấy, ngài Ānanda, không còn nét hân hoan,[21] mắt đẫm lệ, đã nói với giọng nói nghẹn ngào rằng: “Hỡi chư t khưu, hãy cùng nhau đi đến.

382.Hỡi chư t khưu là các đệ tử của đấng Thiện Thệ đang ngụ ở các hưng đông, nam, tây, bắc, xin hãy lắng nghe lời nói của tôi.

383.Bà gotamī y, ngưi đã ra sức nuôi dưỡng xác thân cuối cùng của đấng Hiền Trí, đã đi đến nơi an tnh như là vì sao vào lúc ló dạng của mặt trời.

384.Sau khi đã thiết lập danh xưng cho v ni đã ngự đến Niết Bàn là ‘Người Mẹ của đức Phật,’ đấng Lãnh Đạo, dầu là bậc Ngũ Nhãn, cũng không nhìn thấy nơi nào là nơi (bà) đã đi đến.

385.Vị nào có niềm tin vào đấng Thiện Thệ, và vị nào yêu quý bậc Đại Hiền Trí, xin vị đệ tửcủa đấng Thiện Thệ hãy thể hiện sự tôn kính đối với người mẹ của đức Phật.

386.Sau nghe đưc điều ấy, các vị tỳ khưu thậm chí từ quốc đ vô cùng xa xôi đã nhanh chóng đi đến, một số vị là nhờ vào năng lực của đức Phật, một số vị là được rành rẽ về các phép thần thông.

387.Ở trong ngôi nhà mái nhọn cao quý đáng yêu toàn bộ làm bằng vàng sáng chói, các vị đã cùng nhau sắp đặt chiếc giường nhỏ là nơi bà Gotamī an nghỉ.

388.Bốn vị (Trời) hộ trì thế gian ấy đã cùng nhau gánh vác bằng những bả vai. Chư Thiên còn lại như là (vua Tri) Sakka, v.v... đã cùng nhau khiêng các ngôi nhà mái nhọn.

389.Toàn bộ đã có đến năm trăm ngôi nhà mái nhọn có màu sắc như ánh mặt trời vào mùa thu đu đã được tạo nên bởi vị Trời Vissakamma.

390.Toàn thể các vị tỳ khưu ni y đã đưc đặt nằm trên những chiếc giưng đưc nâng lên đặt ở vai của chư Thiên ri được tuần tự rước đi.

391.Có mái che đã che phủ toàn bộ bề mặt của không trung. Mặt trăng, mặt trời, cùng các vì sao đã được ghi dấu hiệu bằng vàng.

392.Vô số ngọn cờ đã được dựng lên, các tấm màn hoa đã được trải rộng. Từ trên không trung những đóa hoa sen đã rơi xuống, ở trên mặt đt là bông hoa đã được vun cao.

393.Mặt trăng và mặt trời được nhìn thấy và các vì sao lấp lánh. Và mặt trời dầu đã đi đến chính ngọ nhưng không làm cho nóng bức, tợ như là mt trăng vậy.

394.Chư Thiên đã cúng dường bằng các hương thơm ở cõi trời, những tràng hoa thơm ngát, các khúc nhạc, những điệu vũ, và các bản đồng ca.

395.Và các vị Long Vương, chư Thiên, và các Phạm Thiên tùy theo khả năng, tùy theo sức lực đã cúng dưng người mẹ của đức Phật đã Niết Bàn đang đưc rưc đi.

396.Toàn bộ các vị ni đệ tử của đấng Thiện Thệ đã tịch diệt là đưc rưc đi  phía trước, bà Gotamī, ngưi đã nuôi dưng đức Phật, được kính trọng, đã đưc rưc đi ở phía sau.

397.Chư Thiên và nhân loại cùng với các Long Vương, A-tu-la, Phạm Thiên là ở phía trưc, đức Phật cùng các vị Thinh Văn đi ở phía sau nhằm mục đích tôn vinh người mẹ.

398.Lễ viên tịch Niết Bàn của đức Phật đã là như thế nào chứ không đưc như thế này, lễ viên tịch Niết Bàn của bà Gotamī đã là vô cùng phi thường.

399.Ở lễ Niết Bàn của đức Phật, đức Phật không hiện diện (chỉ có) các vị tỳ khưu. Ở lễ Niết Bàn của bà Gotamī có đức Phật cũng như có các v Sāriputta, v.v...

400.Các vị ấy đã thực hiện các giàn hỏa thiêu được làm bằng tất cả các loại vật thơm, được rải rắc các loại bột phấn thơm, ri đã hỏa thiêu bà ở nơi đó.

401.Các phần còn sót lại đã đưc đốt cháy toàn bộ, toàn bộ phần còn lại là các hạt xương. Và khi ấy, ngài Ānanda đã nói lời nói khơi dậy nỗi chấn động:

402.Bà Gotamī đã đi đến sự yên nghỉ, và thi thể của bà ấy đã đưc thiêu đốt. Tôi e rằng sự Niết Bàn của đức Phật sẽ là không lâu.”

403.Sau đó, đưc đức Phật khuyên bảo vị Ānanda y đã dâng lên đấng Bảo Hộ các xá-lợi của bà Gotamī đã đưc đặt vào trong bình bát của bà ấy.

404.Sau khi đã nâng lên các xá-lợi bằng bàn tay, vị Đệ Nhất Ẩn Sĩ đã nói rằng: “So sánh với thân cây to lớn có lõi đang đứng thẳng, –

405.giống cây nào dầu có tầm vóc lớn hơn vẫn bị ngã xuống bởi vì tính chất vô thưng, tương t như thế bà Gotamī của hội chúng tỳ khưu ni đã viên tịch Niết Bàn.

406.Ôi! Quả là ngạc nhiên đối với Ta! Ngay cả trong sự Niết Bàn của người mẹ chỉ còn lại phần nhỏ về xá-lợi, và không có sự sầu muộn hay than vãn.

407.Không có sự sầu khổ ở những người khác. Bà ấy có biển cả luân hồi đã đưc vượt qua, có sự bực bội đã lìa, được trạng thái mát mẻ, đã Niết Bàn tốt đẹp.

408.Bà đã là vị thông thái có tuệ vĩ đi, và tương tợ như thế ấy bà là vị có tuệ bao quát, là vị kỳ cựu trong số các tỳ khưu ni. Này các t khưu, các ngươi hãy ghi nhận như thế.

409.Bà Gotamī đã có năng lực về thần thông, về thiên nhĩ giới, và đã có năng lực về trí biết tâm của người khác.

410.Bà đã biết đưc đời sống trưc đây, thiên nhãn được thanh tịnh, tất cả các lậu hoặc đã được cạn kiệt, đối với bà ấy không còn tái sanh nữa.

411.Bà ấy đã có được trí hoàn toàn thanh tịnh về ý nghĩa, về pháp, về ngôn từ, và tương t y như thế về phép biện giải; vì thế không nên sầu muộn.

412.Giống như đối với ngọn lửa cháy sáng hủy hoại luôn cả chiếc búa sắt (nhưng khi) đã được dập tắt theo tuần tự thì nơi đi đến cũng không được biết.

413.Tương t như vy, đối với những ngưi đã được giải thoát đúng đắn, có sự vượt qua dòng lũ ràng buộc của các dục lạc, đã đt được vị thế bất động thì không còn cảnh giới tái sanh nào đế nhận biết nữa.

414.Do đó, các ngươi hãy là hòn đảo của chính bản thân, có hành xứ là các sự thiết lập niệm. Sau khi tu tập bảy chi phần giác ngộ, các ngươi sẽ làm chấm dứt sự khổ đau.”

 Vị tỳ khưu ni Mahāpajāpatigotamī đã nói lên những lời kệ này như thế ấy.

Ký sự về trưởng lão ni Mahāpajāpatigotamī là phần thứ bảy.

--ooOoo--



Phiên bản thư viện demo v4.5 [Tipiṭaka Tiếng Việt] Theravada