159.Ở thành phố Bandhumatī, tôi đã là người nữ tỳ đi nưc. Là người vận chuyển nưc, tôi đã ra đi sau khi nhận lấy phần (nước) của mình.

160. đường lộ, tôi đã nhìn thấy vị sa-môn có tâm thanh tịnh, định tĩnh. Với tâm tịnh tín, với ý vui mừng, tôi đã dâng ba cục thịt vò viên.

161.Do nghiệp ấy đã được thực hiện tốt đẹp và do các nguyện lực của tác ý, tôi đã không đi đến đọa xứ chín mươi mốt kiếp.

162.Sau khi đã làm thành tựu điều ấy, tôi đt được mọi thứ. Sau khi bố thí ba cục thịt vò viên, tôi đã đt đến vị thế không bị lay chuyển.

163.Các phiền não của tôi đã đưc thiêu đốt, tất cả các hữu đã được xóa sạch. Sau khi cắt đứt sự trói buộc như là con voi cái (đã được cởi trói), tôi sống không còn lậu hoặc.

164.Quả vậy, tôi đã thành công mỹ mãn, đã thành tựu tam minh, đã thực hành lời dạy của đức Phật trong sự hiện tiền của đức Phật tối thượng.

165.Bốn (tuệ) phân tích, tám giải thoát, và sáu thắng trí đã đưc tôi đắc chứng; tôi đã thực hành lời dạy của đức Phật.

Tỳ khưu ni Modakadāyikā đã nói lên những lời kệ này như thế ấy.

Ký sự về trưởng lão ni Modakadāyikā là phần thứ ba.

--ooOoo--



Phiên bản thư viện demo v4.5 [Tipiṭaka Tiếng Việt] Theravada