116.Ở thành phố Bandhumatī, tôi đã là cô gái đi nước.[13] Tôi sống nhờ vào việc đi nước. Nhờ vào việc ấy, tôi nuôi dưng các đứa trẻ.

117.Và tôi không có gì xứng đáng đ dâng cúng đến phưc đin vô thưng. Tôi đã đi đến bể chứa và đã cung cấp nước.

118.Do nghiệp ấy đã được thực hiện tốt đp, tôi đã đi đến cõi trời Đạo Lợi. Ở nơi y, có cung đin đã được kiến tạo khéo léo, đã được hóa hiện ra dành cho tôi do (công đức của) việc đi nước.

119.Khi ấy, chính tôi là ngưi đng đầu của một ngàn tiên nữ, tôi luôn luôn cai quản tất cả các nàng ấy cùng với mười khu vực.

120.Tôi đã được thiết lập vào ngôi chánh hậu của năm mươi v Thiên Vương. Tôi đã được thiết lập vào ngôi chánh hậu của hai mươi đấng Chuyển Luân Vương.

121.Tôi (đã) luân hồi trong hai cảnh giới, ở bản thể chư Thiên và nhân loại. Tôi không còn biết đến khổ cảnh; điều này là quả báu của việc bố thí nước.

122.Cho dù ở đỉnh núi hoặc ở ngọn cây, ở trên không trung và ở trên mặt đt, khi nào tôi ước muốn về nước thì tôi đt được ngay lập tức.

123.Không có phương nào là không có mưa, và không bị nóng bức hoặc bị thiêu đốt; sau khi biết đưc ý định của tôi đám mây lớn (sẽ) đ mưa xuống.

124.Lúc bấy giờ, vào một lần nào đó trong khi tôi được tập thể quyến thuộc dẫn đi, khi nào tôi mun mưa thì khi ấy đám mây ln đ mưa xuống.

125.Sự nóng nực hoặc bực bội không được biết đến ở cơ thể của tôi, và bụi bặm không có ở trên thân thể của tôi; điều này là quả báu của việc bố thí nước.

126.Hiện nay, do tâm ý thanh tịnh, các ác pháp đã lìa, tất cả các lậu hoặc đã được cạn kiệt, giờ đây không còn tái sanh nữa.

127.Kể từ khi tôi đã thực hiện việc làm ấy trưc đây chín mươi mốt kiếp, tôi không còn biết đến khổ cảnh; điều này là quả báu của việc bố thí nước.

128.Các phiền não của tôi đã đưc thiêu đốt, tất cả các hữu đã được xóa sạch. Sau khi cắt đứt sự trói buộc như là con voi cái (đã được cởi trói), tôi sống không còn lậu hoặc.

129.Quả vậy, tôi đã thành công mỹ mãn, đã thành tựu tam minh, đã thực hành lời dạy của đức Phật trong sự hiện tiền của đức Phật tối thượng.

130.Bốn (tuệ) phân tích, tám giải thoát, và sáu thắng trí đã đưc tôi đắc chứng; tôi đã thực hành lời dạy của đức Phật.

Tỳ khưu ni Udakadāyikā đã nói lên những lời kệ này như thế ấy.

Ký sự về trưởng lão ni Udakadāyikā là phần thứ mười.

--ooOoo--

 

TÓM LƯỢC CỦA PHẨM NÀY

Vị ni Sumedhā, cô gái dâng dây nịt, dâng cúng mái che, và con đường đi, cô gái có tràng hoa sậy, cô gái thí vật thực, muỗng (thức ăn), và cô gái dâng cúng đóa sen xanh, cô gái dâng các ngọn đèn, và luôn cả cô gái bố thí nước. Các câu kệ ngôn đã được tính đếm ở đây là một trăm câu kệ ngôn và ba mươi câu thêm vào đó nữa.

Phẩm Sumedhā là phẩm thứ nhất.



Phiên bản thư viện demo v4.5 [Tipiṭaka Tiếng Việt] Theravada