4299.Ở bờ sông Candabhāgā có khu n cư ca tôi đã khéo được xây dựng, có gian nhà rộng bằng lá được rải cát vô cùng tinh khiết đã khéo được tạo lập.

4300.Con sông nhỏ có bờ nước lúp xúp, có bãi nước cạn xinh xắn làm thích ý, có đ các loài cá và rùa, được loài cá sấu lai vãng.

4301.Có các con gấu, công, báo, chim cu rừng, và chim sáo. Chúng hót líu lo vào mọi lúc, làm cho khu ẩn cư của tôi trở nên rực rỡ.

4302.Có các chim cu cu có âm giọng lôi cuốn và các con thiên nga có âm điệu ngọt ngào. Chúng hót líu lo tại nơi ấy, làm cho khu ẩn cư của tôi trở nên rực rỡ.

4303.Có các con sư tử, cọp, heo rừng, chó sói, chó rừng, và linh cẩu. Chúng gầm rú ở nơi hiểm trở của ngọn núi, làm cho khu ẩn cư của tôi trở nên rực rỡ.

4304.Có các con linh dương, nai, chó rừng, lợn rừng. Nhiều con gầm rú ở nơi hiểm trở của ngọn núi, làm cho khu ẩn cư của tôi trở nên rực rỡ.

4305.Có các loại cây uddālaka, cây campaka, cây alī, cây sindu-vāraka, cây atimutta, và cây asoka nở rộ hoa ở khu ẩn cư của tôi.

4306.Có các loại cây aṅkola, cây yūthika, luôn cả cây sattalī, cây bimbijālika, cây kaṇṇika, và cây kaṇikāra nở rộ hoa ở khu ẩn cư của tôi.

4307.Có các loại cây nāga, cây sālā, cây saḷala, cây sen trắng được trổ hoa ở nơi đây. Trong khi ta ra hương thơm của cõi trời, chúng làm cho khu ẩn cư của tôi trở nên rực rỡ.

4308.Có các loại cây ajjuna, cây asana, và cây mahānāma được trổ hoa ở nơi đây, có các cây sālā và các bông hoa của cây kê làm cho khu ẩn cư của tôi trở nên rực rỡ.

4309.Có các cây xoài, cây mận đỏ, cây tilaka, cây nimba, và cây sālakalyāī, trong khi tỏa ra hương thơm của cõi trời chúng làm cho khu ẩn cư của tôi trở nên rực rỡ.

4310.Có các loại cây asoka, cây kapittha, và cây bhaginimāla được trổ hoa ở nơi đây, trong khi ta ra hương thơm của cõi trời chúng làm cho khu ẩn cư của tôi trở nên rực rỡ.

4311.Các loại cây kadamba, luôn cả các cây chuối, và cây isimugga đã được gieo trồng, chúng thường xuyên trĩu nặng những trái làm cho khu ẩn cư của tôi trở nên rực rỡ.

4312.Có những loại cây có trái như cây harītaka, cây āmalaka, cây xoài, cây mận đỏ, câyvibhītaka, cây táo, cây bhallātaka, và cây billa ở khu ẩn cư của tôi.

4313.Không xa có cái hồ nưc khéo được thiết lập làm thích ý, được che phủ bởi các cây mạn-đà-la, bởi các bông sen đỏ và các bông sen xanh.

4314.Có những đóa sen đ đang tượng hình, các đóa hoa khác nở hoa có tua nhụy, luôn cả các đóa có các cánh hoa rủ xuống, chúng nở hoa ở khu ẩn cư của tôi.

4315.Có các loại cá như là cá hīna, cá pāvusa, cá valaja, cá muñja, cá rohita. Trong khi thơ thẩn ở làn nước trong, chúng làm cho khu ẩn cư của tôi trở nên rực rỡ.

4316.Có mùi thơm ca xoài được thoảng qua và có các cây dứa dại ở dọc bờ sông. Trong khi tỏa ra hương thơm của cõi trời, chúng làm cho khu ẩn cư của tôi trở nên rực rỡ.

4317.Có mật tiết ra từ củ sen, có sữa và bơ lỏng từ các rễ và ngó sen. Trong khi tỏa ra hương thơm của cõi trời, chúng làm cho khu ẩn cư của tôi trở nên rực rỡ.

4318. nơi y có cát sáng chói được trải ra và được ve vãn bởi làn nước với các bông hoa tàn đã được nở rộ giờ yên nghỉ, chúng làm cho khu ẩn cư của tôi trở nên rực rỡ.

4319.Các vị (đạo sĩ) mang búi tóc rối, có y choàng là tấm da dê, tất cả đều mặc y phục bằng vỏ cây, họ làm cho khu ẩn cư của tôi trở nên rực rỡ.

4320.Và (các vị ấy) nhìn với khoảng cách của cán cày, cẩn trọng, có hành vi thanh tịnh, không mong mỏi về sự thọ hưởng các dục lạc, sống ở khu ẩn cư của tôi.

4321.Tất cả các vị có (lông) nách, móng tay chân, và các lông được mọc dài, có răng bn, có đầu lấm bụi, mang bụi dơ (ở thân), sống ở khu ẩn cư của tôi.

4322.Và các vị ấy đã đt đến sự toàn hảo về các thắng trí, có sự di chuyển ở không trung. Trong khi bay lên bầu trời, các vị này làm cho khu ẩn cư của tôi trở nên rực rỡ.

4323.Khi ấy, được tùy tùng bởi những người học trò ấy, tôi sống ở khu rừng. Luôn luôn thể nhập vào thiền, tôi không biết đến ngày và đêm.

4324.Vào thời điểm ấy, đức Thế Tôn, bậc Đại Hiền Trí, đấng Lãnh Đạo Thế Gian Atthadassī, trong khi xua đi điu tăm tối ấy đã hiện khởi.

4325.Rối có người học trò nọ đã đi đến gặp tôi. Người ấy có ý định học về các chú thuật và sáu phần về danh hiệu và tướng số (và đã nói rằng):

4326.Đức Phật, bậc Đại Hiền Trí Atthadassī đã xuất hiện ở thế gian. Trong khi công bố về bốn Sự Thật, Ngài thuyết giảng về vị thế Bất Tử.”

4327.Được hớn hở vui mừng hoan hỷ, có khuynh hưng đi đến với Giáo Pháp, tôi đã rời khỏi khu ẩn cư và đã nói lời nói này:

4328.Đức Phật có ba mươi hai ho tưng đã xuất hiện ở thế gian. Các người hãy đi đến, tất cả chúng ta sẽ đi gp đng Chánh Đẳng Giác.

4329.Là những người tầm cầu mục đích ti thượng, có sự đáp ứng theo lời giáo huấn, đã hưng đến sự toàn hảo trong Chánh Pháp, các vị ấy đã đồng ý rằng: “Lành thay!

4330.Khi ấy, trong lúc tầm cầu mục đích ti thượng, các vị (đạo sĩ) mang các búi tóc ấy, có y choàng là tấm da dê, đã rời khỏi khu rừng.

4331.Vào thời điểm ấy, đức Thế Tôn Atthadassī vị có danh tiếng lớn lao trong khi công bố về bốn Sự Thật, Ngài thuyết giảng về vị thế Bất Tử.

4332.Tôi đã cầm lấy chiếc lọng màu trắng và đã che cho đức Phật tối thượng. Sau khi nắm giữ (chiếc lọng) trong một ngày, tôi đã đảnh lễ đức Phật tối thượng.

4333.Kế đó, đức Thế Tôn, đng Trưng Thượng của thế gian, bậc Nhân Ngưu Atthadassī đã ngồi xuống ở hội chúng tỳ khưu và đã nói lên những lời kệ này:

4334.Ngưi nào được tịnh tín nắm giữ chiếc lọng (che) cho Ta bằng các bàn tay của mình, Ta sẽ tán dương người ấy. Các người hãy lắng nghe Ta nói.

4335.Khi ngưi này được sanh lên, ở bản thể Thiên nhân hay nhân loại, sẽ có chiếc lọng luôn luôn che cho ngưi này; điều này là quả báu của việc dâng cúng chiếc lọng.

4336.Người này sẽ sướng vui ở thế giới chư Thiên trong by mươi bảy kiếp, và sẽ trở thành đấng Chuyển Luân Vương một ngàn lần.

4337.Và sẽ trở thành vị Thiên Vương by mươi bảy lần. Lãnh thổ vương quốc là bao la, không thể đo lường bằng phương din tính đếm.

4338.Vào một ngàn tám trăm kiếp, bậc Hữu Nhãn Gotama, đấng cao quý dòng Sakya, trong khi xua đi điu tăm tối ấy, sẽ hiện khởi.

4339.Là người thừa tự Giáo Pháp của vị (Phật) ấy, là chánh thống, được tạo ra từ Giáo Pháp, (người này) sẽ biết toàn diện về tất cả các lậu hoặc và sẽ sống không còn lậu hoặc.”

4340.Kể từ khi tôi đã thực hiện việc làm là đã nắm giữ chiếc lọng (che) cho đức Phật, trong khoảng thời gian này, tôi không biết đến việc không được che bởi chiếc lọng trắng

4341.Lần sau cùng này của tôi là sự hiện hữu cuối cùng trong sự luân chuyển. Việc nắm giữ chiếc lọng được vận hành liên tục đến tận ngày hôm nay.

4342.Ôi, việc làm đã được tôi khéo thực hiện đến (đức Phật) Atthadassī như thế ấy. Tôi đã đưc đoạn tận tất cả các lậu hoặc, giờ đây không còn tái sanh nữa.

4343.Các phiền não của tôi đã đưc thiêu đốt, tất cả các hữu đã được xóa sạch. Sau khi cắt đứt sự trói buộc như là con voi đc (đã được cởi trói), tôi sống không còn lậu hoặc.

4344.Quả vậy, tôi đã thành công mỹ mãn, đã thành tựu tam minh, đã thực hành lời dạy đức Phật trong sự hiện tiền của đức Phật tối thượng.

4345.Bốn (tuệ) phân tích, tám giải thoát, và sáu thắng trí đã đưc (tôi) đắc chứng; tôi đã thực hành lời dạy của đức Phật.

Đại đức trưởng lão Ekachattiya[7] đã nói lên những lời kệ này như thế ấy.

Ký sự về trưởng lão Ekachattiya là phần thứ nhì.

 

--ooOoo--

 



Phiên bản thư viện demo v4.5 [Tipiṭaka Tiếng Việt] Theravada