3990.Ở không xa núi Hi-mã-lạp, có ngọn núi tên là Anoma, có khu ẩn cư ca tôi đã khéo được xây dựng, có gian nhà rộng bằng lá đã khéo được tạo lập.

3991.Và con sông chảy qua nơi ấy có bến nước cạn xinh xắn làm thích ý. Và dọc theo bến nước cạn ấy, có nhiều sen hồng sen xanh mọc lên.

3992.Có các loài cá như là cá hīna, cá pāvusa, cá valaja, cá muñja, và cá rohita. Con sông nhỏ, chứa đầy dẫy những cá và rùa, luôn luôn trôi chảy.

3993. nơi ấy, các loài hoa timira, hoa asoka, hoa khuddamālaka, hoa nguyệt quế, hoa nguyệt quế núi đã được nở rộ tỏa hương đến khu ẩn cư của tôi.

3994. nơi ấy, loài hoa ṭaja và các rừng hoa nhài được nở rộ. Ở nơi ấy, có nhiều cây sālā, cây salala, và cây campaka được nở rộ.

3995.Các loài cây ajjuna, cây atimutta, và cây mahānāma được nở rộ, và loài cây asana có hương thơm ngọt ngào, chúng nở rộ hoa ở khu ẩn cư của tôi.

3996.Các loại cây uddālaka, cây ṭalika, cây yūthika, cây piyaṅguka, và cây bimbijālaka bao phủ ở xung quanh nửa do-tuần.

3997. nơi ấy, có nhiều loại cây mātaṅgava, cây sattali, cây alī, cây sinduvāraka, cây aṅkolaka, và cây tālakūṭa được nở rộ hoa.

3998. nơi ấy, có nhiều cây cánh kiến trắng nở rộ hoa ở khu ẩn cư của tôi. Trong khi những cây này đang nở rộ hoa, nhiều cây trở nên rực rỡ. Khu ẩn cư của tôi tỏa ra với hương thơm ấy ở xung quanh.

3999.Và có những loại trái cây ngọt như trái harītaka, trái āmalaka, trái xoài, trái mận đỏ, tráivibhīṭaka, trái táo, trái bhallātaka, và trái billa.

4000.Và ở nơi ấy có những loại trái cây như trái tinduka, trái piyāla, trái cam thảo, tráikāsumārī, trái mít, trái sa-kê, trái chuối, trái badarī.

4001. nơi ấy, có nhiều trái cây ambāṭaka và trái cây vallikāra. Các cây bījapūra và câysapāriya được kết trái ở khu ẩn cư của tôi.

4002.Từ nơi ấy có nhiều trái cây như trái āḷaka, trái isimugga, và trái moda bao phủ, đã chín tới và trĩu nặng. Và có các trái cây như trái vả và trái sung.

4003. nơi ấy, có nhiều trái ớt, trái tiêu, trái đa, trái táo rừng, trái sung, và trái pāriya đã chín một phần.

4004.Và có nhiều loại cây này và loại cây khác đã kết trái ở khu ẩn cư của tôi. Cũng có nhiều cây có bông hoa đã đơm hoa ở khu ẩn cư của tôi.

4005.Các loài thảo mộc như là āluva, kaḷamba, bilālī, takkala, ālaka, luôn cả tālaka đu được tìm thấy ở khu ẩn cư của tôi.

4006.Ở không xa khu ẩn cư ca tôi (đã) có hồ nước thiên nhiên rộng lớn, có nước trong, có nước mát, có bến nước cạn xinh xắn, làm thích ý.

4007. nơi ấy, có nhiều sen hồng, sen xanh, kết hợp với sen trắng, được che phủ bởi những cây mạn-đà-la, tỏa ra với nhiều hương thơm khác loại.

4008.Có những đóa sen hng đang tượng hình, các đóa hoa khác nở hoa có tua nhụy, có nhiều đóa có các cánh hoa rũ xuống trở thành những gương sen.

4009.Có mật tiết ra từ củ sen, có sữa và bơ lỏng từ các rễ và ngó sen, chúng tỏa ra nhiều hương thơm khác loại (hòa quyện) với hương thơm ấy ở xung quanh.

4010.Có nhiều bông súng trắng và mùi thơm của xoài thoảng qua được nhận biết. Ở kế bờ hồ nước thiên nhiên, có nhiều cây dừa dại đưc đơm bông.

4011.Có các cây bandhujīva khéo nở rộ hoa và các cây setavārī có hương thơm ngát. Có các con cá sấu loại kumbhīla, loại suṃsumāra, và loại gahaka được sanh ra ở tại nơi ấy.

4012.Có nhiều mãng xà là loài thú kiếm mồi trong hồ nước thiên nhiên ở tại nơi ấy. Và có các loài cá hīna, cá pāvusa, cá valaja, cá muñja, và cá rohita.

4013.Có đầy dẫy các loài cá, các con rùa, và các con rái cá nữa. Và có các con chim bồ câu, các con ngỗng trời, các con gà rừng, và các loài sống ở sông.

4014.Có nhiều chim le le, ngỗng đỏ, chim campaka, chim jīvajīvaka, chim kalandaka, chim ưng, chim diều hâu, và chim uddhara.

4015.Có nhiều chim koṭṭhaka, chim sukapota, loài cua, loài bò rừng, loài thú kāreī, và loài thú tilaka sống nương nhờ hồ nước ấy.

4016.Các con sư tử, cọp, báo, gấu, chó sói, linh cẩu, các loài khỉ, và luôn cả loài kim-sỉ-điu được nhìn thấy ở khu ẩn cư của tôi.

4017.Trong khi ngửi các hương thơm y, trong khi ăn các thứ trái cây (ấy), và trong khi uống nưc có hương thơm (ấy), tôi sống ở khu ẩn cư của tôi.

4018.Có các con sơn dương, nai, heo rng, hươu, các loài có dáng vóc nhỏ bé, và luôn cả các con đom đóm có ánh sáng sống ở khu ẩn cư của tôi.

4019. nơi ấy có nhiều chim thiên nga, chim cò, chim công, chim sáo, chim cu, chimmañjarikā, chim cú mèo, và chim gõ kiến.

4020.Có nhiều loài yêu tinh, loài người khổng lồ, và luôn cả loài quỉ sứ, loài quỷ dữ, loài nhân điểu, và luôn cả các loài bò sát sống ở khu ẩn cư của tôi.

4021.Có nhiều vị ẩn sĩ có đại oai lực, có tâm thanh tịnh, đưc định tĩnh, tất cả đều mang bầu nước, có y choàng là tấm da dê, các vị mang búi tóc rối ấy sống ở khu ẩn cư của tôi.

4022.Và (các vị ấy) nhìn với khoảng cách của cán cày, cẩn trọng, có hành vi thanh tịnh, hài lòng với việc có hay không có, sống ở khu ẩn cư của tôi.

4023.Được hỗ trợ bởi các năng lực của bản thân, các vị ấy luôn luôn di chuyển ở không trung (vừa đi) vừa phất phơ bộ y phục vỏ cây vừa kềm giữ tấm y da dê.

4024.Các vị ấy không mang theo nước, củi gỗ, hoặc củi nhóm lửa, và các vị ấy đã tự thân đt được (các thứ ấy), điều này là quả báu của phép kỳ diệu.

4025.Sau khi nhận lấy cái máng bằng kim loại, các vị ấy sống ở giữa rừng ví như những con voi dòng long tượng, tợ như con sư tử không bị hãi sợ.

4026.Một số vị đi đến Tây Ngưu Hóa Châu, một số vị khác đi đến Đông Thắng Thần Châu, và một số vị khác đi đến Bắc Câu Lưu Châu tùy theo năng lực của tự thân. Sau khi mang lại vật thực từ các nơi ấy, các vị thọ thực chung.

4027.Khi ấy, trong lúc tất cả các vị có oai lực nổi bật như thế ấy đang ra đi, khu rng được rộn ràng bởi âm thanh bộ y bằng da dê của (các vị).

4028.Bạch đng Đại Hiền Trí, các vị như thế ấy là những người học trò có sự khổ hạnh nổi bậc của con. Được tùy tùng bởi các vị ấy, con sống ở khu ẩn cư của con.

4029.Được hoan hỷ với việc làm của bản thân, các vị này đã cùng nhau tụ hội, và cũng đã được huấn luyện. Là những người có sự mong mỏi về việc làm của bản thân, có giới hạnh, cẩn trọng, rành rẽ về các pháp vô lượng tâm, họ đã làm con hài lòng.”

4030.Đấng Hiểu Biết Thế Gian Padumuttara, vị thọ nhận các vật hiến cúng, bậc Hưng Đạo sau khi nhận biết thời đim đã đi đến.

4031.Sau khi đi đến, đấng Toàn Giác, bậc Hiền Trí, vị có sự nhiệt tâm, cẩn trọng, đã ôm lấy bình bát, rồi đng Toàn Giác đã đến gần tôi để khất thực.

4032.Khi đng Đại Hùng, bậc Lãnh Đo Padumuttara đã đi đến, tôi đã sắp xếp tấm thảm cỏ và đã rải rắc bằng các bông hoa sālā.

4033.Tôi đã thỉnh đấng Toàn Giác ngồi xuống. Trở nên mừng rỡ, với tâm ý đã đưc kích đng, tôi đã mau chóng leo lên ngọn núi và đã thâu nhặt gỗ trầm hương.

4034.Sau khi hái trái mít có kích thước bằng bầu nưc, có hương thơm cõi trời, tôi đã đặt ở trên vai rồi đã đi đến gần đng Hưng Đạo.

4035.Sau khi đã dâng trái cây đến đức Phật, tôi đã thoa trầm hương. Với tâm tịnh tín, với ý vui mừng, tôi đã đảnh lễ đức Phật tối thượng.

4036.Đấng Hiểu Biết Thế Gian Padumuttara, vị thọ nhận các vật hiến cúng, đã ngồi xuống ở giữa những vị ẩn sĩ và đã nói những lời kệ này:

4037.Ngưi nào đã dâng cúng trái cây, trầm hương, và chỗ ngồi đến Ta, Ta sẽ tán dương người ấy. Các người hãy lắng nghe Ta nói.

4038.Cho dầu ở làng hoặc ở rừng, ở các sườn núi hoặc ở các hang động, vật thực sẽ hiện ra đúng theo tâm (ước muốn) của người này.

4039.Được sanh lên ở thế giới chư Thiên hoặc ở loài ngưi, người nam này sẽ làm toại ý nhóm tùy tùng với các thức ăn và với các loại vải vóc.

4040.Chốn nào được sanh lên là bản thể Thiên nhân hay loài ngưi, sau khi có được của cải không bị suy suyển, người nam này sẽ luân hồi.

4041.Người này sẽ sướng vui ở thế giới chư Thiên trong ba mươi ngàn kiếp, và sẽ trở thành đấng Chuyển Luân Vương một ngàn lần.

4042.Và người này sẽ cai quản Thiên quốc bảy mươi mốt lần. Lãnh thổ vương quốc là bao la, không thể đo lường bằng phương diện tính đếm.

4043.Vào một trăm ngàn kiếp (về sau này), bậc Đo Sư tên Gotama, xuất thân gia tộc Okkāka sẽ xuất hiện ở thế gian.

4044.Là người thừa tự Giáo Pháp của vị (Phật) ấy, là chánh thống, được tạo ra từ Giáo Pháp, (người này) sẽ biết toàn diện về tất cả các lậu hoặc và sẽ sống không còn lậu hoặc.”

4045.Điều lợi ích được thành tựu một cách tốt đp đã được thành tựu đến tôi, là việc tôi đã được nhìn thấy đấng Lãnh Đo, tôi đã thành tựu tam minh, tôi đã thực hành lời dạy của đức Phật.

4046.Cho dầu ở làng hoặc ở rừng, ở các sườn núi hoặc ở các hang động, sau khi biết được tâm của tôi vật thực luôn luôn hiện đến cho tôi.

4047.Các phiền não của tôi đã đưc thiêu đốt, tất cả các hữu đã được xóa sạch. Sau khi cắt đứt sự trói buộc như là con voi đc (đã được cởi trói), tôi sống không còn lậu hoặc.

4048.Quả vậy, tôi đã thành công mỹ mãn, đã thành tựu tam minh, đã thực hành lời dạy đức Phật trong sự hiện tiền của đức Phật tối thượng.

4049.Bốn (tuệ) phân tích, tám giải thoát, và sáu thắng trí đã đưc (tôi) đắc chứng; tôi đã thực hành lời dạy của đức Phật.

Đại đức trưởng lão Upasiva đã nói lên những lời kệ này như thế ấy.

Ký sự về trưởng lão Upasiva là phần thứ năm.

 

--ooOoo--

 



Phiên bản thư viện demo v4.5 [Tipiṭaka Tiếng Việt] Theravada