3581.Tôi đã là vị chủ quản đường lộ ở thành phố Haṃsavatī. Tôi đã tập hợp thân quyến của tôi lại và đã nói lời nói này:
3582.“Đức Phật, Phước Điền vô thượng, đã hiện khởi ở thế gian. Ngài là vị thọ nhận các vật hiến cúng của toàn bộ thế gian.
3583.Các vị Sát-đế-lỵ, luôn cả các thị dân, và các Bà-la-môn vô cùng sang trọng có tâm tịnh tín có ý vui mừng, họ đã thể hiện tinh thần cộng đồng.
3584.Các người nài voi, các lính ngự lâm, các người đánh xe, các binh lính có tâm tịnh tín có ý vui mừng, họ đã thể hiện tinh thần cộng đồng.
3585.Các vị con lai (có cha dòng Sát-đế-lỵ và mẹ là nô bộc), các người con trai của đức vua, các thương buôn, và các Bà-la-môn có tâm tịnh tín có ý vui mừng, họ đã thể hiện tinh thần cộng đồng.
3586.Các người đầu bếp, các người phục vụ, các người hầu tắm, các người làm tràng hoa có tâm tịnh tín có ý vui mừng, họ đã thể hiện tinh thần cộng đồng.
3587.Các người thợ nhuộm, các người thợ dệt, các người thuộc da, và các người thợ cạo có tâm tịnh tín có ý vui mừng, họ đã thể hiện tinh thần cộng đồng.
3588.Các người làm tên, các người thợ tiện, các người thợ da, luôn cả các người thợ mộc có tâm tịnh tín có ý vui mừng, họ đã thể hiện tinh thần cộng đồng.
3589.Các người thợ rèn, các người thợ vàng, cũng vậy các người thợ thiếc có tâm tịnh tín có ý vui mừng, họ đã thể hiện tinh thần cộng đồng.
3590.Các người làm công, luôn cả các trẻ sai vặt, nhiều kẻ nô lệ làm công, tùy theo năng lực của mình họ đã thể hiện tinh thần cộng đồng.
3591.Các người gánh nước, các người gánh củi, các nông dân, và các người gánh cỏ, tùy theo năng lực của mình họ đã thể hiện tinh thần cộng đồng.
3592.Các người trồng hoa, luôn cả các người làm tràng hoa, các người hốt lá, các người gánh trái cây, tùy theo năng lực của mình họ đã thể hiện tinh thần cộng đồng.
3593.Các cô kỹ nữ, các cô hầu đội nước, các cô bán bánh, và các bà bán cá, tùy theo năng lực của mình họ đã thể hiện tinh thần cộng đồng.
3594.Xin quý vị hãy đi đến. Tất cả chúng ta hãy tụ hội lại và cùng nhau kết hợp lại thành nhóm. Chúng ta sẽ thực hiện hành động hướng thượng đến Phước Điền vô thượng.”
3595.Sau khi lắng nghe lời nói của tôi, họ đã tức thời kết hợp lại thành nhóm và đã cho thực hiện hội trường phục vụ được xây dựng khéo léo dành cho Hội Chúng tỳ khưu.
3596.Sau khi cho làm hoàn tất hội trường ấy, tôi đã trở nên phấn khởi, có tâm ý hớn hở. Được tất cả những người ấy tháp tùng, tôi đã đi đến gặp bậc Toàn Giác.
3597.Sau khi đi đến gần bậc Toàn Giác, đấng Bảo Hộ Thế Gian, bậc Nhân Ngưu, tôi đã đảnh lễ ở bàn chân của bậc Đạo Sư và đã nói lời nói này:
3598.“Bạch đấng Anh Hùng, ba trăm người nam này là cùng nhóm. Bạch bậc Hiền Trí, họ cống hiến đến Ngài hội trường phục vụ đã được xây dựng khéo léo.”
3599.Bậc Hữu Nhãn đứng đầu Hội Chúng tỳ khưu đã tiếp nhận, và trước ba trăm người Ngài đã nói lên những lời kệ này:
3600.“Ba trăm người cùng với vị trưởng thượng đã hợp tác cùng nhau. Sau khi thực hiện, tất cả các ngươi sẽ thọ hưởng thành quả.
3601.Khi đạt đến kiếp sống cuối cùng, các ngươi sẽ chạm được Niết Bàn an tịnh, có trạng thái mát mẻ, vô thượng, không già, không chết.”
3602.Đức Phật, bậc Toàn Tri, vị Sa-môn vô thượng, đã chú nguyện như thế. Sau khi lắng nghe lời nói của đức Phật, tôi đã bày tỏ sự vui mừng.
3603.Tôi đã sướng vui ở thế giới chư Thiên ba mươi ngàn kiếp. Và tôi đã là vị thống lãnh chư Thiên cai quản Thiên quốc năm trăm lần.
3604.Và tôi đã trở thành đấng Chuyển Luân Vương một ngàn lần. Các vị Đại Thiên đã đảnh lễ tôi khi tôi đang cai quản Thiên quốc.
3605.Ở đây, trong vương quốc nhân loại, nhóm người (trước đây) trở thành bà con họ hàng. Khi kiếp sống cuối cùng đã đến, có người Bà-la-môn tên Vāseṭṭha.
3606.Tôi đã là người con trai của vị ấy, có sự tích lũy tám mươi koṭi (tám trăm triệu). Tên của tôi là Sela. Tôi đạt đến sự toàn hảo về sáu chi phần (của vị Bà-la-môn).
3607.3608. Trong khi dẫn đầu những người học trò của mình đi bách bộ đó đây, tôi đã nhìn thấy vị đạo sĩ khổ hạnh tên Keṇiya, mang búi tóc và giỏ vật dụng, có vật cúng hiến đã được chuẩn bị, và tôi đã nói lời nói này: “Có phải ông đã thỉnh mời cô dâu, hoặc chú rể, hay là đức vua?”
3608.“Tôi có ý định dâng tặng vật hiến cúng đến vị Bà-la-môn đã được công nhận là vị Trời. Tôi không thỉnh mời đức vua, vật hiến cúng của tôi không có.
3609.Và tôi thì không có cô dâu, chú rể của tôi thì không được biết đến. Còn vị đem lại niềm hoan hỷ cho dòng họ Sakya là bậc Trưởng Thượng ở thế gian luôn cả chư Thiên.
3610.Vị ấy là nguồn đem lại sự an lạc cho tất cả chúng sanh, vì sự lợi ích và tấn hóa của toàn bộ thế gian, vị ấy đã được tôi thỉnh mời ngày hôm nay. Đây là vật chuẩn bị cho vị ấy.
3611.Đức Phật đã được (tôi) thỉnh mời vào ngày mai là vị có màu da tợ như trái cây timbarū, là bậc vô lượng, vô song, không thể sánh bằng về dáng vóc.
3612.Đức Phật, đấng Đại Hùng đã được tôi thỉnh mời ấy trông tợ thỏi vàng đặt ở cửa miệng lò nung, như là than gỗ khadira cháy rực, tương tợ tia chớp.
3613.Đức Phật đã được tôi thỉnh mời ấy giống như ngọn lửa ở đỉnh ngọn núi, tợ như mặt trăng vào ngày rằm, giống như là màu sắc ngọn lửa của cây sậy.
3614.Đức Phật, đấng Đại Hùng đã được tôi thỉnh mời ấy như là con sư tử, không bị hãi sợ, đã vượt qua sự sợ hãi, là bậc Hiền Trí có sự chấm dứt việc tái sanh.
3615.Đức Phật, đấng Đại Hùng đã được tôi thỉnh mời ấy là vị thiện xảo trong các pháp của chư Phật. Ngài không bao giờ bị áp bức bởi những kẻ khác, tương tợ con voi.
3616.Đức Phật, đấng Đại Hùng đã được tôi thỉnh mời ấy là vị thiện xảo về sự thực hành trong Chánh Pháp, là vị Phật hùng tráng không thể sánh bằng, tương tợ con bò mộng.
3617.Đức Phật, đấng Đại Hùng đã được tôi thỉnh mời ấy là vị có phẩm hạnh vô biên, có danh vọng vô lượng, có tất cả tướng mạo rực rỡ, tương tợ (Chúa Trời) Sakka.
3618.Đức Phật, đấng Đại Hùng đã được tôi thỉnh mời ấy là vị có năng lực, có đồ chúng, có sự huy hoàng, có sự vẻ vang, khó mà tiếp cận, tương tợ đấng Phạm Thiên.
3619.Đức Phật, đấng Đại Hùng đã được tôi thỉnh mời ấy có Giáo Pháp đã đạt, là đấng Thập Lực, là bậc thông thạo về năng lực và siêu năng lực, tương tợ trái đất.
3620.Đức Phật, đấng Đại Hùng đã được tôi thỉnh mời ấy được vây bủa bởi các làn sóng giới hạnh, không bị lay động do sự nhận thức (của giác quan) đối với các đối tượng, tương tợ biển cả.
3621.Đức Phật, đấng Đại Hùng đã được tôi thỉnh mời ấy là khó mà tiếp cận, khó mà chế ngự, không bị lay chuyển, hướng thượng, cao thượng, tương tợ núi Neru.
3622.Đức Phật, đấng Đại Hùng đã được tôi thỉnh mời ấy có trí tuệ vô biên, tương đương với bậc không thể sánh bằng, không thể ước lượng, đã đạt đến tột đỉnh, tương tợ bầu không gian.
(Tụng phẩm thứ mười lăm).
3624.Đức Phật, đấng Đại Hùng đã được tôi thỉnh mời ấy là vị an ủi, là chốn nâng đỡ cho những kẻ bị khiếp hãi lo sợ, là sự bảo vệ cho những người đến nương nhờ.
3625.Đức Phật, đấng Đại Hùng đã được tôi thỉnh mời ấy là hầm mỏ châu báu, là chỗ trú của những người có trí giác ngộ, là Phước Điền của những người tầm cầu sự an lạc.
3626.Đức Phật, đấng Đại Hùng đã được tôi thỉnh mời ấy là bậc an ủi, tạo ra niềm phấn khởi, là đấng ban phát quả vị Sa-môn, tương tợ đám mây (đem lại cơn mưa).
3627.Đức Phật, đấng Đại Hùng đã được tôi thỉnh mời ấy là con mắt của thế gian, có oai lực lớn lao, là sự xua đi tất cả các bóng tối, tương tợ mặt trời (xua tan đêm đen).
3628.Đức Phật, đấng Đại Hùng đã được tôi thỉnh mời ấy là bậc Hiền Trí có sự nhìn thấy bản thể trong các sự giải thoát khỏi đối tượng của các giác quan, tương tợ mặt trăng (lìa bỏ các chỗ đã rọi đến).
3629.Đức Phật, đấng Đại Hùng đã được tôi thỉnh mời ấy là bậc trưởng thượng, đã tự mình vươn lên ở thế gian, được tô điểm với các tướng mạo, là bậc vô lượng.
3630.Vị nào có trí tuệ không thể đo lường, vị nào có giới không thể tương đương, vị nào có sự giải thoát không thể sánh bằng, vị ấy là Đức Phật đã được tôi thỉnh mời.
3631.Vị nào có nghị lực không sánh bằng được, vị nào có sức mạnh không nên suy tưởng, vị nào có sự nỗ lực hàng đầu, vị ấy là đức Phật đã được tôi thỉnh mời.
3632.Đức Phật, đấng Đại Hùng đã được tôi thỉnh mời ấy có tất cả các chất độc hại là tham, sân, và si đã được xóa sạch, tương tợ thuốc chữa bệnh.
3633.Đức Phật, đấng Đại Hùng đã được tôi thỉnh mời ấy có sự xua đi căn bệnh phiền não, nhiều sự khổ đau, và tất cả các bóng tối, tương tợ vị lương y.”
3634.“Này ông, vị mà ông nói là ‘Đức Phật,’ thậm chí tiếng gọi ấy cũng khó mà đạt được.” Sau khi được nghe rằng: ‘Đức Phật! Đức Phật!’ đã có sự phỉ lạc sanh khởi đến tôi.
3635.Niềm phỉ lạc của tôi không (thể) nắm giữ ở bên trong đã bộc lộ ra ngoài. Trong khi có tâm phỉ lạc, tôi đây đã nói lời nói này:
3636.“Vậy thì đức Thế Tôn, bậc Trưởng Thượng của thế gian, đấng Nhân Ngưu ấy là ở đâu? Tôi sẽ đi đến nơi ấy và sẽ đảnh lễ đấng ban phát quả vị Sa-môn.”
3637.Sau khi nắm lấy cánh tay phải (của tôi), (vị đạo sĩ Keṇiya) tràn đầy niềm phấn khởi, tay chắp lại, đã nói với tôi về đấng Pháp Vương, bậc có sự xua đi các mũi tên sầu muộn, rằng:
3638.“Ông hãy nhìn xem khu rừng lớn này tợ như đám mây khổng lồ đang trỗi dậy, như là lớp thuốc bôi màu lục, trông như là biển cả.
3639.Đức Phật, bậc Điều Phục những ai chưa được điều phục, đấng Hiền Trí ấy ngự ở nơi đây, đang hướng dẫn những người cần được hướng dẫn và giúp cho họ giác ngộ những chi phần giác ngộ.”
3640.Tợ như người khát nước tìm kiếm nước, tợ như người bị đói tìm kiếm thức ăn, như là bò mẹ khao khát con bê, tôi đã tìm đến đấng Chiến Thắng tương tợ như thế.
3641.Là người biết lối hành xử và cách tiếp cận hay dở thích hợp với tình huống, tôi đã chỉ dạy những người học trò của mình trong khi họ đang đi đến chỗ của đấng Chiến Thắng rằng:
3642.“Này các chàng trai, các đấng Thế Tôn là khó mà tiếp cận, tợ như những con sư tử có sở hành đơn độc, các trò nên đi đến, bước từng bước từng bước một.
3643.Giống như con rắn độc khủng khiếp, tợ như con sư tử vua của loài thú, tợ như con voi có ngà đã bị nổi cơn, chư Phật là khó mà tiếp cận như thế ấy.
3644.Này các chàng trai, hãy kềm lại sự ho khan và khịt mũi. Các trò hãy đi đến gần bên đức Phật, bước từng bước từng bước một.
3645.Chư Phật là các vị thầy của thế gian luôn cả chư Thiên, là những bậc quý trọng sự yên tịnh, ít gây tiếng động, khó mà tiếp cận, khó đến gần bên.
3646.Khi ta hỏi câu hỏi hoặc là trao đổi xã giao, khi ấy các trò hãy im lặng, hãy đứng yên như là có bản chất của bậc hiền trí.
3647.Về Chánh Pháp mà vị ấy thuyết giảng nhằm đạt đến Niết Bàn an ổn, các trò hãy chú tâm đến ý nghĩa ấy. Việc lắng nghe Chánh Pháp là hạnh phúc.”
3648.Sau khi đi đến gần bậc Toàn Giác, tôi đã chào hỏi với bậc Hiền Trí. Sau khi đã trao đổi lời thăm hỏi ấy, tôi đã quan sát các tướng mạo.
3649.Tôi nhìn thấy ba mươi tướng mạo, nhưng tôi vẫn còn hoài nghi về hai tướng mạo. Đấng Hiền Trí đã dùng thần thông cho thấy vật kín có lớp vỏ bọc lại.
3650.Đấng Chiến Thắng đã thè lưỡi ra uốn lại, rồi đã chạm vào lỗ tai và lỗ mũi, (sau đó) đã che lấp toàn bộ cái trán.
3651.Sau khi nhìn thấy các tướng mạo được đầy đủ cùng với các tướng phụ của Ngài, tôi đã đi đến kết luận là “Đức Phật,” và đã xuất gia cùng với các người học trò.
3652.Cùng với ba trăm (người học trò), tôi đã xuất gia vào đời sống không gia đình. Chưa đến nửa tháng, tất cả chúng tôi đã đạt được Niết Bàn.
3653.Sau khi đã cùng nhau thực hiện công việc ở Phước Điền vô thượng, sau khi đã cùng nhau luân hồi, họ đã cùng nhau dừng lại.
3654.Sau khi dâng cúng các cây đà chống, tôi đã sống theo tính chất cộng đồng. Do nghiệp ấy đã được thực hiện tốt đẹp, tôi đạt được tám nhân tố:
3655.Tôi được tôn vinh ở các phương, và của cải của tôi là vô lượng, tôi là chốn nâng đỡ cho tất cả, sự run sợ của tôi không được biết đến.
3656.Các bệnh tật của tôi không được biết đến, và tôi gìn giữ được tuổi thọ, tôi là người có làn da mềm mại, tôi cư ngụ ở trú xứ đã được mong mỏi.
3657.Sau khi dâng cúng tám cây đà chống, tôi đã sống theo tính chất cộng đồng. Tôi có các tuệ phân tích và phẩm vị A-la-hán, điều này là phần phụ trội của điều thứ tám.
3658.Bạch đấng Đại Hiền Trí, con có toàn bộ nguồn nhiên liệu đã cạn, có phận sự đã được làm xong, không còn lậu hoặc, là người con trai của Ngài, có tên là Aṭṭhagopānasī.
3659.Sau khi dâng cúng năm cây cột trụ, tôi đã sống theo tính chất cộng đồng. Do nghiệp ấy đã được thực hiện tốt đẹp, tôi đạt được năm nhân tố:
3660.Tôi không dao động nhờ vào tâm từ ái, tôi có các bộ phận cơ thể không bị thiếu sót, tôi có lời nói được thừa nhận, cũng vậy tôi không bị công kích.
3661.Tâm của tôi không bị tản mạn, tôi không bị dao động bởi bất cứ điều gì. Do nghiệp ấy đã được thực hiện tốt đẹp, tôi không bị bợn nhơ ở trong Giáo Pháp.
3662.Bạch đấng Đại Hùng, bạch bậc Hiền Trí, vị tỳ khưu Thinh Văn của Ngài có sự tôn kính, có sự phục tùng, có phận sự đã được làm xong, không còn các lậu hoặc, xin đảnh lễ Ngài.
3663.Tôi đã thực hiện chiếc ghế bành được làm khéo léo và đã bố trí ở hội trường. Do nghiệp ấy đã được thực hiện tốt đẹp, tôi đạt được năm nhân tố:
3664.Sau khi được sanh vào gia tộc thượng lưu, tôi có của cải lớn lao. Tôi là người được thành tựu mọi thứ, sự bỏn xẻn ở tôi không được biết đến.
3665.Khi tôi mong muốn ra đi, chiếc ghế bành hiện diện kế bên. Bằng chiếc ghế bành tối thượng, tôi đi đến nơi đã được tôi mong muốn.
3666.Do việc dâng cúng chiếc ghế bành ấy, tôi đã xua đi tất cả bóng tối. Bạch đấng Hiền Trí, vị trưởng lão đã đạt được toàn bộ năng lực của thắng trí xin đảnh lễ Ngài.
3667.Tôi đã hoàn thành tất cả các phận sự, phận sự của mình và phận sự đối với người khác. Do nghiệp ấy đã được thực hiện tốt đẹp, tôi đã đi vào thành phố không sợ hãi (Niết Bàn).
3668.Tôi đã dâng cúng vật hữu dụng chính là hội trường đã được hoàn thành. Do nghiệp ấy đã được thực hiện tốt đẹp, tôi đã đạt đến bản thể tối thượng.
3669.Bất cứ các huấn luyện viên nào ở thế gian, khi họ huấn luyện các con voi, các con ngựa, họ thực hiện nhiều cách hành hạ khác nhau, họ huấn luyện bằng sự tàn bạo.
3670.Bạch đấng Đại Hùng, Ngài không huấn luyện các người nam và nữ như thế ấy. Ngài huấn luyện trong sự huấn luyện tối thượng, không gậy, không dao.
3671.Trong khi tán dương các đức tính của sự bố thí, bậc Hiền Trí là vị thiện xảo về việc thuyết giảng. Ngay trong khi đang trả lời một câu hỏi, bậc Hiền Trí đã giác ngộ cho ba trăm người.
3672.Được đấng Điều Ngự huấn luyện, chúng tôi đã được hoàn toàn giải thoát, không còn lậu hoặc, đã đạt được toàn bộ năng lực của thắng trí, đã được tịch diệt về sự đoạn tận mầm mống tái sanh.
3673.Kể từ khi tôi đã dâng cúng vật thí trước đây một trăm ngàn kiếp, tất cả các điều lo sợ đã được vượt qua; điều này là quả báu của việc dâng cúng hội trường.
3674.Quả vậy, tôi đã thành công mỹ mãn, đã thành tựu tam minh, đã thực hành lời dạy đức Phật vào thời hiện tiền của đức Phật tối thượng.
3675.Các phiền não của tôi đã được thiêu đốt, tất cả các hữu đã được xóa sạch. Sau khi cắt đứt sự trói buộc như là con voi đực (đã được cởi trói), tôi sống không còn lậu hoặc.
3676.Bốn (tuệ) phân tích, tám giải thoát, và sáu thắng trí đã được (tôi) đắc chứng; tôi đã thực hành lời dạy của đức Phật.
Đại đức trưởng lão Sela đã nói lên những lời kệ này như thế ấy.
Ký sự về trưởng lão Sela là phần thứ nhì.
--ooOoo--
Phiên bản thư viện demo v4.5 [Tipiṭaka Tiếng Việt] Theravada